(Đã dịch) Dân Quốc Chi Văn Hào Quật Khởi - Chương 916 : (( hắc thổ ) xuất bản )
Giang Tân.
Bạch Lãng đặt bút máy xuống, ngồi thẳng người và vươn vai duỗi người một cách thoải mái. Vào mùa hè năm ấy, nàng cùng chồng là La Phong đã tham gia đoàn phỏng vấn nhà văn tiền tuyến, đi một vòng qua Hoa Sơn, Trung Điều Sơn, Thái Hành Sơn... khắp mọi nơi. Hiện tại, nàng đang biên soạn lại nhật ký chiến trường để chuẩn bị xuất bản dưới dạng tác phẩm văn học.
"Lily, em xem đây là gì này?" La Phong ôm một chồng sách dày cộp bước vào nhà.
Trước đây, bút danh của Bạch Lãng là Lưu Lỵ, những người quen thân thường gọi nàng bằng bút danh ấy, mặc dù "Bạch Lãng" cũng là một bút danh khác của nàng.
Bạch Lãng tò mò nhìn sang, chỉ thấy trên gáy sách in rõ hai chữ lớn "Hắc thổ". Nàng vui mừng đứng bật dậy hỏi: "Sách (Hắc thổ) của Chu tiên sinh cuối cùng cũng xuất bản rồi sao?"
La Phong cười nói: "Đúng vậy, năm tập, mười cuốn, hơn 4 triệu chữ. Mua bộ sách này khiến cả nhà mấy tháng trời phải nhịn ăn thịt đấy."
"Thịt có thể không ăn, nhưng tác phẩm của Chu tiên sinh thì không thể không mua," Bạch Lãng vừa nói vừa rút một cuốn ra xem.
Nhắc đến các nữ tác gia vùng Đông Bắc thời Dân quốc, nhiều người tự nhiên nghĩ ngay đến Tiêu Hồng. Thực ra, Bạch Lãng trong một thời gian rất dài cũng nổi danh ngang với Tiêu Hồng. Trên thực tế, hai người họ còn là đôi bạn thân thiết, từ Đông Bắc, Thượng Hải, Vũ Hán, rồi đến Trùng Khánh, họ vẫn luôn giúp đỡ lẫn nhau. Đứa con xấu số của Tiêu Hồng đã chào đời ngay tại nhà Bạch Lãng.
Bạch Lãng và La Phong là anh em họ, được người lớn trong nhà tác hợp kết hôn. Mới kết hôn không lâu, Bạch Lãng đã phát hiện La Phong thường xuyên không về nhà vào ban đêm. Sau nhiều lần gặng hỏi, nàng mới biết chồng mình hóa ra là cán bộ Đảng Cộng sản hoạt động bí mật, lại còn trực tiếp dưới sự lãnh đạo của Dương Tĩnh Vũ. Thế là Bạch Lãng cũng trở thành một thành viên của tổ chức bí mật đó, năm 21 tuổi đã đảm nhiệm vai trò biên tập cho tờ báo ngầm của Đảng Cộng sản (Quốc tế Hiệp báo).
Sự việc đáng nhớ nhất của Bạch Lãng phải kể đến thời kỳ kháng Mỹ viện Triều, khi nàng hiến toàn bộ gia sản của mình để mua máy bay và đại bác.
La Phong cẩn thận từng li từng tí một đặt bộ (Hắc thổ) vào giá sách, cười nói: "Hôm nay anh làm cơm, em cứ yên tâm mà đọc đi."
"Vậy thì anh vất vả rồi," Bạch Lãng cười hì hì đáp.
Mặc dù (Hắc thổ) vẫn được đăng nhiều kỳ trên tạp chí (Phi Công), nhưng vì kéo dài nhiều năm nên người đọc khó tránh khỏi bỏ lỡ vài kỳ, ít ai có thể đọc trọn vẹn từ đầu đến cuối.
Bạch Lãng nhanh chóng chìm đắm vào cốt truyện, khi mỉm cười, khi cau mày. Đến khi chồng gọi ăn cơm, nàng chợt nhận ra hai gò má đã ướt đẫm lệ. Nàng nhớ về cố hương Bạch Sơn Hắc Thổ, nhớ về những người thân đang cách xa ở Đông Bắc; tác phẩm này đã khơi gợi trong nàng quá nhiều ký ức.
Trên bàn cơm, Bạch Lãng không khỏi cảm thán: "Tác phẩm này của Chu tiên sinh viết thật hay!"
La Phong gật đầu nói: "Đúng vậy, người bình thường khó mà sáng tác được một tác phẩm đồ sộ với dung lượng lớn đến vậy. Ông ấy không chỉ viết được, mà còn phác họa nên cả một thời đại của vùng Đông Bắc."
"Nghe nói, Chu tiên sinh là sau khi đọc bản thảo đầu tiên của (Đồng cỏ Khoa Nhĩ Thấm) của Đoan Mộc Hống Lương xong, mới nảy ra ý định viết (Hắc thổ) đó," Bạch Lãng cười nói.
La Phong đáp: "Khi đó Đoan Mộc ngày nào cũng sang nhà Chu tiên sinh, chuyên tâm kể về phong thổ vùng Đông Bắc."
Bạch Lãng không khỏi nghĩ đến Tiêu Hồng, cảm khái nói: "Cũng không biết Đoan Mộc và chị Hồng đã an toàn đến Hồng Kông chưa. Nàng ấy là một người đáng thương, cuộc đời luôn gặp nhiều bất hạnh."
La Phong đang định an ủi thì đột nhiên bên ngoài vang lên tiếng gõ cửa.
"Ai đấy?" La Phong hỏi.
"Tôi."
"Vào đi," La Phong nói.
Người đến cũng là một nhà văn lưu vong từ Đông Bắc, bút danh Lạc Tân Cơ. Đầu kháng chiến, ông từng tham gia đội du kích; đầu n��m ngoái đã gia nhập Đảng Cộng sản, lưu lạc khắp nơi rồi lại đến Trùng Khánh. Tác phẩm (Biên Thùy Tuyến Thượng) của ông, miêu tả nghĩa dũng quân kháng Nhật ở Đông Bắc, đã được Ba Kim đề cử xuất bản vào tháng trước.
Bạch Lãng đứng dậy chào hỏi: "Anh ăn cơm chưa? Tôi đi lấy thêm một bộ bát đũa."
"Ăn rồi, ăn rồi," Lạc Tân Cơ liên tục nói, rồi lúng túng xoa tay: "Cái đó... tôi nghe nói La Phong mua một bộ (Hắc thổ), anh có thể cho tôi mượn đọc một chút không?"
La Phong cười mắng: "Mũi cậu thính thật đấy! Sao lại ngửi được mùi vậy?"
"Ha ha ha ha ha," Lạc Tân Cơ vẻ mặt chất phác cười khúc khích.
Bạch Lãng mím môi nói: "Tự vào thư phòng mà xem đi."
Lạc Tân Cơ vào thư phòng chưa được bao lâu, lại có thêm hai người nữa tới. Thế là bữa cơm tối hôm đó chẳng thể nào yên tĩnh được. Những nhà văn lưu vong từ Đông Bắc này đều ở rất gần nhau, chỉ cần có tin tức gì là họ lại kéo đến, đua nhau chạy đến đọc ké sách. Cũng phải thôi, vì bộ (Hắc thổ) quá đắt, mà các nhà văn lưu vong thì lại quá nghèo.
Mỗi người tự lấy xuống một cuốn, chẳng cần biết là từ tập nào hay phần đầu của cuốn nào, cứ thế mà say sưa đọc.
Sau đó hai, ba tháng, cứ rảnh lúc nào là họ lại kéo đến ngồi. Cả bộ (Hắc thổ) chẳng mấy chốc đã trở nên cũ nát vì bị lật giở quá nhiều, thậm chí thỉnh thoảng còn giơ lên để tranh luận về tình tiết và kỹ xảo viết. Chỉ riêng những bài viết bình luận về (Hắc thổ) thôi cũng đã lên đến bảy, tám bài.
Không chỉ cộng đồng nhà văn lưu vong Đông Bắc quan tâm, mà cả văn đàn Trung Quốc cũng đang xôn xao bàn tán. Thậm chí ở cả những vùng bị chiếm đóng rộng lớn cũng đang âm thầm truyền tay nhau đọc, bởi từ tập thứ hai trở đi, tác phẩm này đã chứa đựng tư tưởng kháng Nhật dày đặc, nên đã bị quân đội Nhật và chính phủ bù nhìn liệt vào danh sách sách cấm.
Ba Kim bình luận trên tạp chí (Phong Hỏa): "(Hắc thổ) có thể nói là một kiệt tác văn học kháng chiến truyền đời. Tác phẩm lấy ba gia tộc ở Đông Bắc làm manh mối, phơi bày những biến động to lớn của xã hội Đông Bắc trong hơn nửa thế kỷ qua. Dù toàn bộ tác phẩm dành rất ít dung lượng để nói về kháng Nhật, nhưng tư tưởng kháng Nhật lại hiện hữu khắp mọi nơi. Ba gia tộc lớn trong sách, từ hưng thịnh đến suy tàn, đều có bóng dáng quân Nhật. Chính sự xâm lược của giặc Nhật vào Trung Quốc đã khiến vô số gia đình tan nát, vô số gia tộc lật đổ... (Hắc thổ) chính là lời lên án văn học mạnh mẽ nhất đối với quân xâm lược Nhật Bản."
Lương Thực Thu cũng viết bài than thở, nhân tiện biện hộ cho mình vài câu: "Tôi luôn phản đối kháng Nhật bát cổ. Kháng Nhật bát cổ là gì? Chính là phàm là sáng tác văn học, tất yếu phải cứng nhắc rập khuôn, gò ép vào nội dung kháng Nhật. Ngay cả uống ngụm nước, ăn bữa cơm cũng phải hô to hai tiếng kháng Nhật... Tuyên truyền kháng Nhật đương nhiên là hành vi ái quốc, nhưng chúng ta không thể vì kháng Nhật mà kháng Nhật. Đặc biệt là trong sáng tác văn học, khi một lượng lớn tác phẩm kháng Nhật kém chất lượng xuất hiện, có thể khiến độc giả sinh ra sự chán ghét, thậm chí còn gây ra tác dụng ngược đối với việc tuyên truyền kháng Nhật. Tác phẩm (Hắc thổ) của Chu tiên sinh nên được xem là khuôn mẫu của văn học kháng Nhật. Ngoài một số ít nhân vật có tinh thần kháng Nhật rõ nét trong sách, hơn chín mươi phần trăm nhân vật đều không kháng Nhật, thậm chí rất nhiều còn là Hán gian. Tình huống này phù hợp với thực tế, khiến chúng ta đọc thấy rất hợp lý, và cũng nhờ vậy mà dễ dàng đồng cảm. Dù là Hán gian hay người yêu nước trong sách, họ đều có kết cục bi thảm, cùng nhau thể hiện trọn vẹn bốn chữ – quốc thù nhà hận! Đây mới là lối viết văn học kháng Nhật chân chính."
Trương Hận Thủy tuy rằng thành danh nhờ những tiểu thuyết tình yêu giải trí, nhưng giờ đây đã chuyển sang viết về kháng chiến. Từ khi biết được thảm sát Nam Kinh, ông liền tự nguyện bỏ tiền túi xin đi chiến trường địch hậu để đánh du kích, đáng tiếc không biết phải làm sao, đành tiếp tục viết. Ông giờ đã bắt đầu sáng tác (Sông Lớn Chảy Về Đông), đây là tác phẩm đầu tiên của Trung Quốc phản ánh thảm sát Nam Kinh.
Trương Hận Thủy viết bài bình luận: "Chuyện tài tử giai nhân thì dễ viết, còn quốc thù nhà hận thì kh�� lòng mà kể xiết. Từ khi viết về kháng chiến đến nay, tôi cảm thấy việc viết lách rất gian nan, dù tràn đầy bi phẫn hóa thành con chữ, nhưng dẫu sao cũng chỉ có vẻ nhạt nhẽo, trắng xám. Tác phẩm (Hắc thổ) của Chu Minh Thành đã khiến tôi rung động thật sâu. Với 4 triệu chữ trôi chảy, tác phẩm hiện ra như nỗi thống khổ của cả một dân tộc. Chẳng cần đến (Thần Nữ), cũng chẳng cần đến (Cẩu Quan), chỉ riêng một bộ (Hắc thổ) thôi, Chu Minh Thành đã đủ để được gọi là đại văn hào. Văn học kháng chiến sau này e rằng khó lòng vượt qua được."
Bản chuyển ngữ mượt mà này là thành quả của truyen.free, giữ nguyên mọi quyền.