(Đã dịch) Tẩu Tiến Bất Khoa Học - Chương 221 : Cho nên nói nhiệm vụ đâu? (sáu K chữ)
"William Thompson?" Nghe thấy cái tên này, Từ Vân khẽ cứng đờ, đến cả nhịp thở cũng hụt mất một vỗ.
Trước đây, hắn từng cho rằng Thompson này rất có thể là J.J. Thompson, người đã khám phá ra điện tử. Ai ngờ... người này lại là William Thompson, một nhà khoa học khác cùng họ?
Thực ra, so với cái tên William Thompson, một xưng hô khác của ông có lẽ được biết đến rộng rãi hơn: Huân tước Kelvin. Đúng vậy! Chính là người đã phát minh ra thang nhiệt độ tuyệt đối trong nhiệt động lực học, người cha đẻ lừng danh của ngành này. Nhiệt độ Kelvin mà sách giáo khoa vật lý thường xuyên nhắc đến chính là do ông đề xuất.
William Thompson sinh ngày 26 tháng 6 năm 1824 tại Belfast, Ireland. Cha ông, James, là giáo sư toán học tại Học viện Hoàng gia Belfast, và cả gia đình chuyển đến Glasgow, Scotland khi Thompson lên tám tuổi.
Thực ra, khi còn nhỏ, William Thompson thể hiện khả năng ở mức trung bình, không có gì nổi bật hay đáng kinh ngạc. Thế nhưng, sau khi đến Glasgow, Thompson bỗng nhiên như được kích hoạt phần mềm hack, liên tục lập nên những kỷ lục phi thường xuất chúng:
Năm 10 tuổi, ông đã vào Đại học Glasgow học dự bị. Đến năm 14 tuổi, ông bắt đầu theo học các chương trình đại học. Và khi 15 tuổi, với một bài luận mang tựa đề "Hình dạng của Trái Đất", ông đã giành được huy chương vàng từ Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Scotland, một giải thưởng dành cho tất cả các trường đại học trong nước.
Tuy nhiên, do một năm gãy xương và hoàn cảnh gia đình, mãi đến năm 16 tuổi Thompson mới thi vào Đại học Cambridge. Ông chọn chương trình học 4+1 để lấy bằng cấp tiêu chuẩn và tốt nghiệp đại học khi 21 tuổi.
Sau khi tốt nghiệp, năm 1846, Thompson được mời làm giáo sư triết học tự nhiên tại Đại học Glasgow và giữ chức vụ này cho đến khi ông qua đời vào năm 1907.
Trong thời gian này, ông đã thành lập phòng thí nghiệm vật lý đại học đầu tiên trên toàn nước Anh và cũng là người đầu tiên đề xuất phổ cập các thí nghiệm vật lý cho sinh viên. Ông còn sử dụng kết quả đo đạc chính xác từ phòng thí nghiệm để hỗ trợ việc lắp đặt cáp điện ngầm xuyên Đại Tây Dương, giúp thông tin liên lạc giữa Anh và Châu Mỹ đạt được bước phát triển đột phá.
Đến năm 1848, ông đã sáng lập thang nhiệt độ tuyệt đối.
Năm 1851, ông đưa ra định luật hai của nhiệt động lực học: "Không thể rút nhiệt từ một nguồn nhiệt duy nhất và biến hoàn toàn thành công mà không gây ra bất kỳ ảnh hưởng nào khác." Đây là cách diễn giải chuẩn mực được công nhận của định luật hai nhiệt động lực học. Từ định luật này, ông khẳng định rằng sự tiêu tán năng lượng là một xu thế phổ biến.
Sau đó, ông còn tiên đoán hiệu ứng Joule-Thomson, phát minh phương pháp ảnh điện, định nghĩa nhiệt độ tuyệt đối, v.v.
Sau này, chính phủ Anh đã phong ông làm tước sĩ vào năm 1866 và thăng ông lên hàng Huân tước Kelvin vào năm 1892. Cái tên Kelvin bắt nguồn từ đó.
Tuy nhiên, về sau, cái tên Kelvin ngoài việc gắn liền với nhiệt độ tuyệt đối, còn thường xuyên được nhắc đến cùng với "hai đám mây đen của vật lý học" trong các giai thoại. Giai thoại này hẳn là đa số các bạn đều từng nghe qua, tuy nhiên trong đó vẫn còn một số chi tiết cần được làm rõ... hay nói đúng hơn là đính chính lại.
Những bạn đọc nào "sống hai trăm năm không chết" hẳn đều biết rằng trong thế kỷ 19 – tức là khoảng thời gian từ năm 1800 đến 1900 – vật lý học đã đạt được sự phát triển cực kỳ nhanh chóng. Lúc bấy giờ, nhiều người cho rằng tòa nhà vật lý đã hoàn toàn được xây dựng xong, và dù thế nào cũng kh��ng thể bị lay chuyển. Nhiệm vụ của thế hệ sau chỉ còn là ngước nhìn các bậc tiền bối từ dưới đất mà hô to "666" là xong.
Trong bối cảnh đó, vào ngày 27 tháng 4 năm 1900, tại Viện Hoàng gia trên phố Albemarle, London, Huân tước Kelvin đã công bố một bài diễn thuyết có tựa đề "Mây đen thế kỷ 19 trên lý thuyết nhiệt động lực học và ánh sáng".
Thực ra, nguyên văn lời Kelvin nói lúc đó là thế này: "Nguyên lý động lực học suy luận rằng nhiệt và ánh sáng đều là các phương thức chuyển động. Nhưng hiện tại, vẻ đẹp và sự rõ ràng của lý thuyết này lại bị che phủ bởi hai đám mây đen, khiến nó trở nên ảm đạm..."
Đám mây đen thứ nhất mà Kelvin nhắc đến chính là thí nghiệm Michelson-Morley. Tức là vấn đề về chuyển động của Trái Đất trong Ether. Trong quan niệm của mọi người thời bấy giờ, Ether đại diện cho một hệ quy chiếu tuyệt đối bất động. Còn việc Trái Đất chuyển động trong không gian xuyên qua Ether thì tương đương với một con thuyền đang chạy với tốc độ cao, và một luồng "gió Ether" mạnh sẽ thổi tới từ phía trước.
Vì vậy, Michelson đã tiến hành một thí nghiệm vào năm 1881 để đo tốc độ tương đối này, nhưng kết quả không hoàn toàn như mong đợi. Thế là ông cùng một nhà vật lý học khác là Morley hợp tác, sắp xếp thí nghiệm lần thứ hai vào năm 1886. Đây cũng là thí nghiệm tinh vi nhất từng được thực hiện trong lịch sử vật lý tính đến trước năm 1886: Họ đã sử dụng thiết bị giao thoa tiên tiến nhất; để nâng cao độ nhạy và tính ổn định của hệ thống, họ thậm chí còn tìm kiếm và đặt một phiến đá cẩm thạch lên một máng thủy ngân. Điều này giúp giảm thiểu tối đa các yếu tố gây nhiễu.
Thế nhưng, kết quả thí nghiệm lại khiến họ vừa kinh ngạc vừa vô cùng thất vọng: Hai chùm tia sáng hoàn toàn không thể hiện sự chênh lệch thời gian nào, dường như Ether không hề ảnh hưởng đến tia sáng xuyên qua nó. Thí nghiệm này đã gây ra một sự chấn động lớn trong giới vật lý lúc bấy giờ, bởi vì khái niệm "Ether" – vốn được coi là đại diện cho chuyển động tuyệt đối – là nền tảng của vật lý học cổ điển và quan niệm về không thời gian cổ điển. Tuy nhiên, trụ cột vốn chống đỡ tòa nhà vật lý học cổ điển này lại vô tình bị hủy bỏ bởi kết quả của một thí nghiệm, điều này rõ ràng là một hiện tượng làm lung lay nền tảng.
Đồng thời, về sau, thí nghiệm Michelson-Morley cũng được xếp vào danh sách "những thí nghiệm thất bại" nổi tiếng nhất trong lịch sử vật lý. Bởi vậy, trong thời đại đó, việc nó được gọi là một "đám mây đen" cũng là điều dễ hiểu.
Còn về "đám mây đen thứ hai"... đó là sự không nhất quán giữa lý thuyết và thí nghiệm bức xạ vật đen, và đây cũng là điểm mà Kelvin thường bị hiểu lầm nhất.
Cái gọi là "vật đen" – đúng như tên gọi của nó – là thứ đen nhất. Thời đó, vì không có trò chơi gacha, các vị tù trưởng châu Phi vẫn còn chưa được nhiều người biết đến... À, xin lỗi, tôi nói lạc đề rồi.
Tóm lại, vật đen thực sự là một vật thể hấp thụ hoàn hảo. Nghĩa là, nó có thể hấp thụ bất kỳ bước sóng bức xạ nào chiếu tới bề mặt nó, không phản xạ và cũng không xuyên qua. Chúng ta đều biết rằng, ngoài việc hấp thụ và phản xạ s��ng điện từ, bất kỳ vật thể nào cũng đều phát ra sóng điện từ ra bên ngoài. Loại bức xạ này liên quan đến nhiệt độ, loại vật liệu và tình trạng bề mặt của vật thể, được gọi là bức xạ nhiệt. Tuy nhiên, vật đen lại là một ngoại lệ: Cường độ bức xạ của nó chỉ phụ thuộc vào nhiệt độ.
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, các học giả khi đối mặt với vấn đề bức xạ vật đen đã vận dụng định luật Rayleigh-Jeans của vật lý học cổ điển để tính toán mối quan hệ giữa cường độ bức xạ vật đen và năng lượng. Theo lý thuyết điện động lực học cổ điển lúc bấy giờ, bức xạ là liên tục. Điều này dẫn đến một vấn đề nghiêm trọng: Khi tính toán bức xạ vật đen, cường độ sẽ tăng lên vô hạn theo tần số bức xạ, có xu hướng giải phóng năng lượng vô cùng lớn, khiến vật chất bị suy biến hoàn toàn do bức xạ "không giới hạn". Điều này rõ ràng không phù hợp với logic thực tế và tình trạng của lý thuyết cơ học cổ điển.
Đây chính là đám mây đen thứ hai, còn được gọi là "thảm họa tử ngoại", hay "thảm họa Rayleigh-Jeans".
Còn những chuyện về sau thì mọi người đều biết rồi: Đám mây đen thứ nhất cuối cùng đã dẫn đến sự bùng nổ của cách mạng thuyết tương đối. Đám mây đen thứ hai cuối cùng đã dẫn đến sự bùng nổ của cách mạng lý thuyết lượng tử.
Đến năm 2022, đỉnh cao của vật lý học đã lại phủ đầy những đám mây đen...
Và tại hội nghị đó, Kelvin thực chất đã đặc biệt chỉ ra một vấn đề liên quan đến đám mây đen thứ hai. Đó là sự sai khác lớn giữa giá trị tính toán lý thuyết về nhiệt dung riêng đẳng áp và đẳng tích của các phân tử lưỡng nguyên tử hoặc đa nguyên tử, so với giá trị quan sát được qua thí nghiệm:
"... Sự sai lệch rõ ràng trong quan sát là hoàn toàn đủ để bác bỏ lý thuyết của Boltzmann và Maxwell."
"... Trên thực tế, sai lầm trong lý thuyết của Boltzmann và Maxwell còn lớn hơn những gì đã được liệt kê ở trên."
Bản thảo bài diễn thuyết này hiện đang được lưu giữ tại Thư viện Đại học Cambridge, trong mục phân loại "Vật lý" của "Thế kỷ 19". Bởi vậy, trong suốt quá trình diễn thuyết, thái độ của Kelvin thực chất là vô cùng cẩn trọng, không hề có ý xem thường hai đám mây đen đó.
Đáng tiếc là, qua nhiều lần truyền bá sau này, lời nói của Kelvin đã bị biến thành giai thoại "Tòa nhà vật lý đã hoàn thành, chỉ còn lại một vài công việc trang trí nhỏ" – mà câu này thực chất không phải do ông nói.
Câu nói này không ph��i của Kelvin mà của Albert Michelson. Ông chính là Michelson trong "thí nghiệm Michelson-Morley", đám mây đen thứ nhất. Trong một bài diễn thuyết vào năm 1894, ông đã đưa ra nhận định: "... Dường như có thể nói rằng, những nguyên tắc cơ bản vĩ đại của vật lý học đã được xác lập vững chắc, không thể phá vỡ... Chân lý khoa học vật lý tương lai nên được tìm kiếm trong sáu chữ số lẻ nhỏ."
Câu nói này sau đó đã bị thay đổi và gán cho Kelvin, trở thành một giai thoại – thật đáng tiếc.
Ở một mức độ nào đó, Kelvin... hay nói đúng hơn là William Thompson, nên được coi là một trong những trường hợp điển hình bị "hủy hoại" bởi các giai thoại. Trong lịch sử cũng không thiếu những người xui xẻo tương tự, rõ ràng là người tốt nhưng lại bị bóp méo thành vai hề. Ví dụ như Phan Kim Liên, Doãn Chí Bình, Nguyên Chẩn và cả những kẻ tiểu nhân khác cũng vậy.
Quay trở lại câu chuyện. Nhìn từ vị thế lịch sử của William Thompson, ông quả thực phù hợp với tiêu chuẩn lựa chọn của vầng sáng. Dù sao ông cũng là cha đẻ của nhiệt động lực học hiện đại. Không có sự xuất hiện của ông, nhiều định nghĩa liên quan đến nhiệt độ trong thời hiện đại sẽ khó có thể đạt được sự thống nhất.
Nhưng vấn đề là... Bây giờ đã biết rõ cái tên William Thompson, vậy tại sao vầng sáng lại không có bất kỳ phản ứng nào?
Cần biết rằng, trong hai phó bản trước đó, chỉ cần Từ Vân nhận diện được tên mục tiêu của phó bản, vầng sáng sẽ thông qua màn hình đưa nhiệm vụ đến trước mắt hắn, kèm theo một loạt những lời trêu chọc. Nhưng bây giờ trước mặt Từ Vân lại không có màn hình nào hiện ra, đừng nói đến thông báo nhiệm vụ.
Phải chăng vầng sáng bị "rớt mạng" đứng máy rồi? Hay là... nhân vật quan trọng của phó bản này không phải William Thompson?
Ôm theo thắc mắc này, Từ Vân lại dùng ánh mắt lướt qua William Thompson một lần nữa. Dù cho người trẻ tuổi trông hơi giống phiên bản Saruman thời thanh xuân này rốt cuộc có phải là nhân vật chính của nhiệm vụ lần này hay không, ít nhất vị thế 'nhân vật mấu chốt' thì không thể chạy thoát. Bởi vậy, điều bản thân phải làm tiếp theo là xác đ��nh thời điểm cụ thể hiện tại. Sau đó, cố gắng hết sức để ở cạnh đối phương, từ đó tìm kiếm chân tướng tiếp theo.
... ...
Khác với phó bản năm 1665 trước đây của Nghé Con, gần hai trăm năm trôi qua, người Anh đã có không ít tiến bộ trong trang phục và thói quen vệ sinh cá nhân, ít nhất không còn "nguyên thủy" và kỳ lạ như thời đó nữa.
William Thompson đầu tiên quay lại toa xe lấy ra một túi khoai tây, sau đó nói với Từ Vân và Will: "La Phong, ta ra bờ sông nhỏ phía trước rửa một ít khoai tây, tối nay chúng ta sẽ ăn thịt muối hầm khoai tây."
"Ngươi và Will cùng đi chẻ chỗ củi ta nhặt về nhé, củi ở vùng này chất lượng rất tốt nên ta nhặt được nhiều một chút."
"Tối nay dùng một phần trước, số còn lại chất lên xe để dùng dần trên đường, dù sao chỗ này ẩm ướt quá."
Từ Vân thấy vậy vội vàng gật đầu, đáp: "Không vấn đề gì, Thompson tiên sinh."
Thompson khẽ ừ một tiếng, cầm khoai tây đi về phía con sông nhỏ phía xa.
Sau khi ông đi, Will lấy hai chiếc rìu từ bên hông toa xe ra, đưa một chiếc cho Từ Vân và hỏi: "La Phong tiên sinh, ngài có biết chẻ củi không?"
Từ Vân nhận lấy rìu, dùng tay phải không bị thương cầm cán rìu lắc lắc, rồi nói một cách đầy ẩn ý: "Đương nhiên là biết rồi, đây chính là bí kíp chẻ củi gia truyền của Bá tước Newton đó."
Will: "0v0?"
Sau đó, Từ Vân đi theo Will đến bên đống củi và bắt đầu chẻ. Thật ngẫu nhiên.
Những khúc gỗ mà William Thompson tìm về đều là cành cây dương, vì loại cây này khô và giòn, rất thích hợp làm củi đốt. Nhìn những cây dương thấp bé đặc hữu của Anh này, Từ Vân bỗng nhớ đến phó bản năm 1665. Hồi đó, trước khi dẫn hắn về nhà William, Nghé Con cũng từng cùng hắn đốn những khúc gỗ tương tự. Thật là hoài niệm làm sao...
Két — Chẻ xong một khúc củi, Từ Vân liếc nhìn William Thompson đang cong lưng rửa khoai tây ở đằng xa, rồi giả bộ như vô tình hỏi Will: "Will tiên sinh, các ngài lần này định đi đâu?"
Will, vì phải chăm sóc Từ Vân – một 'người tàn tật' – nên làm nhiều việc hơn một chút. Nghe vậy, anh lau mồ hôi rồi nói: "Đi London."
"London?" Từ Vân giả vờ kinh ngạc nhướng mày, tò mò hỏi: "Các ngài cũng đi London sao?"
Will khẽ gật đầu, lại đặt một khúc củi khác trước mặt, "rắc" một tiếng chẻ nó làm đôi, miệng vẫn nói: "Mấy năm nay mùa màng ở nông thôn không tốt, tôi định đi London thử vận may."
"Nghe nói mấy năm nay thương mại viễn dương rất thiếu nhân lực, nếu kiếm được việc làm thì dù sao cũng tốt hơn làm nông."
Will toát ra hơi thở đậm chất thôn quê, khiến Từ Vân rất tự nhiên tin vào lời nói của nhân vật qua đường này. Sau đó, hắn đổi lời và đột nhiên hỏi: "Vậy còn Thompson tiên sinh thì sao?"
"Thompson tiên sinh à?" Will lắc đầu, đặt rìu xuống, thở một hơi rồi đáp: "Ông ấy thì tôi không rõ, tôi chỉ nghe nói ông ấy hình như muốn đến London để tìm nương tựa một lão giáo sư rất nổi tiếng nào đó."
"Cha tôi và ông của Thompson tiên sinh quen biết rất nhiều năm rồi, hai nhà có mối quan hệ rất tốt, nên đã cử tôi đi cùng ông ấy."
Từ Vân lúc này mới khẽ gật đầu tỏ vẻ đã hiểu, trong lòng lóe lên một tia minh ngộ.
Thiếu niên Will với hơi thở đậm chất thôn quê này rất có khả năng không liên quan đến nhiệm vụ của mình. Hầu hết là một nhân vật qua đường giống như Trương Tam, cùng lắm thì cũng chỉ như Tạ Lão Đô Quản mà thôi. Còn vầng sáng thì không thể vô duyên vô cớ đưa mình đến bên cạnh Thompson được – dù sao vị này cũng không phải ai cũng có thể tiếp cận dễ dàng.
Bởi vậy, rất rõ ràng. Mục tiêu nhiệm vụ lần này, nhất định là Adam Hopkins!
Nếu không phải, La Phong hắn sẽ nuốt chửng chiếc rìu đó ngay tại chỗ!
Câu nói đó là gì nhỉ? Lợi thế thuộc về ta!
Bản chuyển ngữ này đã được cấp phép độc quyền cho truyen.free, và không thể sao chép hay phân phối dưới bất kỳ hình thức nào khác.