(Đã dịch) Trùng Sinh Dã Tính Thời Đại - Chương 400 : 【 Tứ Hợp Viện cầm xuống 】
Ba trăm chín mươi tám: Thu mua Tứ Hợp Viện
Bảo tàng Quan Phục.
Mã Nguy Đô chỉ vào một chiếc ấm sứ men trắng, đích thân giảng giải cho Tống Duy Dương: "Anh thấy miệng ấm không? Giống như mũ của nhà sư, nên loại ấm này gọi là ấm mũ tăng. Dáng ấm này xuất hiện sớm nhất vào đời Nguyên, nhưng ấm mũ tăng đời Nguyên thường có hình thể chắc nịch, cổ ấm tương đối thô, vòi ấm lại khá ngắn. Chiếc ấm này của chúng ta rõ ràng không phải đồ đời Nguyên. Nó thuộc thời Minh Vĩnh Lạc, vòi ấm hơi dài, còn các đặc điểm khác tương tự ấm đời Nguyên. Đến đời Thanh thì lại khác, đời Thanh kéo cao cổ ấm, thân ấm hơi thon, nên tổng thể nhìn thanh thoát hơn."
"Vậy còn món này thì sao?" Tống Duy Dương chỉ vào chiếc bình sứ bên cạnh.
Mã Nguy Đô đáp: "Chiếc bình này tên đầy đủ là 'Pháp Hoa Triền Chi Mẫu Đan Văn Mai Bình'. Pháp Hoa còn được gọi là Hồng Phấn Khảm, là một loại men gốm nung ở nhiệt độ thấp, nó vô luận xét về công nghệ hay màu men đều cực kỳ giống lưu ly, nên Pháp Hoa đôi khi cũng được gọi chung là lưu ly. Còn mai bình, đúng như tên gọi, dùng để cắm cành mai. Nhưng việc cắm mai là chuyện về sau này, từ đời Minh trở đi. Vào đời Tống, mai bình còn được gọi là kinh bình, là dụng cụ dùng để chứa rượu, ngay cả đời Minh cũng thường dùng để đựng rượu."
Tống Duy Dương hỏi: "Vậy chiếc bình này thuộc niên đại nào?"
"Đời Minh," Mã Nguy Đô chỉ vào bình nói, "Mai bình đời Minh có dáng hơi lùn, miệng uốn lượn dày dặn, không có đường chỉ gãy khúc rõ ràng, lại thêm vai hơi nhô cao, trông đầy đặn và vững chãi… Đời Tống thì gầy cao, dáng dấp gần giống đùi gà; đời Nguyên kế thừa kiểu dáng đời Tống nhưng vai đầy đặn hơn, lại thường có nắp bình; đời Thanh vai càng thêm đầy đặn, phần eo trở xuống thuôn thẳng hơn."
Mã Nguy Đô là người khởi xướng Bảo tàng Quan Phục, nhưng tạm thời vẫn chưa chính thức nhậm chức Viện trưởng. Tống Duy Dương gọi ông là "Mã Viện trưởng" chỉ là cách gọi kính trọng.
Dạo quanh bảo tàng một lát, Tống Duy Dương gật đầu cười nói: "Đồ cổ cũng thú vị đấy chứ, lúc nào tôi cũng phải mua vài món để tập tành xem sao."
Mã Nguy Đô nói: "Cứ tập tành thì được, nhưng đừng quá đắm chìm vào nó, cũng đừng mơ đến việc vớ bẫm. Từ lúc mới bước chân vào nghề mà đã có chút tâm đắc, ít nhất cũng phải mất mười năm. Ngay cả tôi vài năm trước còn bị lừa. Ông chủ Tống chắc chắn không thiếu tiền, nếu thực sự muốn sưu tầm, tốt nhất là dùng tiền thật bạc thật mua vài món ở phòng đấu giá để chơi, ít nhất là tương đối an toàn hơn. Mua hàng vỉa hè để vớ bẫm cũng được, vài ba nghìn tệ đối với ngài chỉ là số tiền nhỏ, nhưng đừng đụng vào những món hàng vỉa hè có giá hơn chục nghìn tệ."
Tống Duy Dương cười nói: "Ha ha, cho dù tôi mua được hàng thật, bản thân tôi cũng không có thời gian quản lý, chi bằng gửi thẳng vào bảo tàng của ông vậy."
Mã Nguy Đô nói: "Được chứ, ký gửi tại bảo tàng để trưng bày, chúng tôi sẽ giúp ngài bảo dưỡng, chỉ thu một khoản phí quản lý nhỏ."
"Tôi ở Thượng Hải quen một cụ già tên là Đỗ Duy Thiện, là con trai của Đỗ Nguyệt Sanh," Tống Duy Dương cười nói, "Mã Viện trưởng nếu có dịp đến Thượng Hải, có thể trò chuyện với cụ Đỗ, hai người chắc chắn có rất nhiều chuyện để nói."
Mã Nguy Đô đáp: "Vậy thì hay quá. Cụ Đỗ thì tôi biết, là chuyên gia nghiên cứu tiền cổ, chỉ tiếc là vẫn chưa có dịp giao lưu trực tiếp."
Tống Duy Dương nói: "Cụ ấy ở tầng năm bảo tàng Thượng Hải, ông cứ đến hỏi thẳng, cụ rất thích trò chuyện với mọi người."
"Lần sau đi Thượng Hải, tôi nhất định phải ghé thăm." Mã Nguy Đô nói.
Điện thoại di động đột nhiên reo, Tống Duy Dương bắt máy và hỏi: "Chuyện gì?"
Cuộc gọi là từ nhân viên công ty con Hỉ Phong ở kinh thành. Tống Duy Dương không tiện tự mình ra mặt mua Tứ Hợp Viện, nên đã cử cán bộ trung tầng của công ty con hỗ trợ một chuyến. Người này nói: "Sếp ơi, hai triệu rưỡi vẫn không thể mua được, ít nhất phải hai triệu tám trăm nghìn đến ba triệu tệ mới xong."
Tống Duy Dương hỏi: "Tăng giá tại chỗ à?"
Nhân viên Hỉ Phong nói: "Cũng không hẳn là vậy, chủ yếu là họ không muốn chuyển đi. Các gia đình trong tứ hợp viện cơ bản đều làm việc gần đó. Nhưng giá tiền chúng ta đưa ra chỉ đủ để họ mua một căn hộ rất nhỏ ở khu Nhị Hoàn. Nếu họ mua nhà bên ngoài Nhị Hoàn, những người trẻ tuổi đi làm lại rất bất tiện. Người già thì càng không vui, họ đã sống ở Tứ Hợp Viện cả đời rồi, rất khó thuyết phục họ chuyển đi."
Tống Duy Dương cười nói: "Vậy là, vẫn là vấn đề tiền bạc?"
"Đúng vậy," nhân viên Hỉ Phong nói, "ít nhất phải để họ có thể mua nhà trong khu Nhị Hoàn, thì những hộ dân này mới bằng lòng chuyển đi. Dù vậy, cũng còn phải khuyên nhủ những người già kia, dù sao người ta đã sinh sống cả đời trong ngõ hẻm rồi."
Tống Duy Dương nói: "Tôi cho anh ba triệu tệ, anh giải quyết chuyện này cho tôi, nhớ là đừng làm loạn nhé."
Nhân viên Hỉ Phong nói: "Ba triệu tệ là đủ rồi, tôi sẽ nhanh chóng đàm phán xong trước Tết. Tuy nhiên, để những người này chuyển đi hết, e rằng phải kéo dài đến bốn năm tháng, dù sao việc mua nhà và chuyển nhà cũng cần thời gian."
"Không vấn đề gì." Tống Duy Dương nói.
Năm 1999, thị trường căn hộ ở kinh thành còn chưa đến mức phi lý, giá nhà trong khu Nhị Hoàn dao động từ 1.500 đến 2.500 tệ/mét vuông, giá cụ thể tùy thuộc vào khu vực và chất lượng nhà ở. So với giá nhà Thượng Hải thì rẻ hơn rất nhiều. Nhưng sang năm, giá sẽ bắt đầu tăng không ngừng, những căn hộ cũ chất lượng tốt có thể tăng lên 4.000 tệ/mét vuông, những căn bình thường cơ bản cũng trên 2.000 tệ.
Còn về nhà ở bên ngoài khu Nhị Hoàn kinh thành, cứ mua đại đi. Nếu có lương 2.000 tệ/tháng, anh đã có thể cân nhắc việc đặt cọc mua những căn hộ chung cư cao cấp ở khu Tam Hoàn rồi.
Mã Nguy Đô đứng bên cạnh cũng đại khái hiểu rõ, cười nói: "Hai triệu rưỡi chắc chắn có thể mua được tứ hợp viện này, nhưng sẽ mất thời gian. Các hộ dân ở đó, một nhà mấy miệng người chen chúc trong một căn phòng, những người trẻ tuổi thì chỉ mong sớm được đổi chỗ ở, còn người già cuối cùng rồi cũng phải nghe theo ý kiến của người trẻ thôi."
"Có thể tiêu ít tiền mà nhanh chóng giải quyết thì tốt, không cần thiết hao phí quá nhiều sức lực." Tống Duy Dương nói.
Nếu kéo dài sang năm, giá nhà kinh thành tăng vọt, những hộ dân kia e rằng sẽ đòi hỏi nhiều hơn.
…
Nhân viên công ty con Hỉ Phong được giao nhiệm vụ thương lượng giá cả cho Tống Duy Dương tên là Địch Khánh Hoa. Người này đã sớm nắm bắt tâm tư của ông chủ, không quá quan tâm đến số tiền nhiều hay ít, chỉ cốt làm sao để các hộ dân nhanh chóng chuyển đi.
Vào tối hôm đó, Địch Khánh Hoa liền triệu tập tất cả hộ gia đình đến sân trong, đưa ra mức phí di dời là 2.600 tệ/mét vuông, thậm chí cả giếng trời và lối đi chung cũng được tính vào. Những vị trí không phải diện tích xây dựng thì là 1.500 tệ/mét vuông.
Kế sách này vô cùng hiểm độc, lập tức chuyển mâu thuẫn chính từ việc người dân có muốn dọn đi hay không, hay phí di dời có đủ hay không, thành tranh chấp xem giếng trời và lối đi chung đó thuộc về nhà ai. Những gia đình vốn dĩ khá hòa thuận trong xóm, thoáng chốc đã trở mặt như chó với mèo, để tranh giành vài mét vuông lối đi nhỏ, cuối cùng thậm chí còn làm ầm ĩ đến đồn cảnh sát.
Những người già không muốn dọn đi đều hoảng sợ, lo lắng những hàng xóm chuyển trước sẽ bán luôn lối đi và giếng trời. Vì thế, mặc kệ có bán hay không, họ đều tranh nhau đàm phán hợp đồng với Địch Khánh Hoa, ít nhất cũng phải nắm giữ quyền sở hữu đối với những vị trí không thuộc diện tích xây dựng đó.
Đồn cảnh sát bị làm cho đau đầu nhức óc, họ được mời đến để làm người phân xử, nhưng căn bản không thể phân xử được.
Các gia đình đông người thì nói, nên phân chia giếng trời và lối đi chung theo đầu người. Những nhà ít người thì nói, nên chia đều theo số lượng hộ. Thậm chí có những gia đình ở lâu năm nhất, nhất quyết đòi chia theo thâm niên, nói rằng ai đến trước thì được trước.
Mặt trận thống nhất của các hộ dân cứ thế tan rã, trong tứ hợp viện ngày nào cũng cãi vã.
Ban đầu những người già không muốn dọn đi nhất, ngược lại trở thành những người muốn rời đi nhanh nhất. Thật sự là họ đã bị những người bạn cũ bất hòa làm tổn thương sâu sắc, cứ ở lại đây thêm một ngày là họ lại cảm thấy khó chịu.
Cuối cùng, sau khi ban quản lý khu phố hòa giải, mọi người cũng thống nhất một phương án phân chia tương đối hợp lý.
Tống Duy Dương biết chuyện, không khỏi dở khóc dở cười. Anh đầu tiên là phê bình Địch Khánh Hoa một trận, rồi sau đó lại thăng chức tăng lương cho Địch Khánh Hoa, đồng thời bồi thường thêm 10 nghìn tệ cho mỗi hộ trong Tứ Hợp Viện, coi như an ủi tâm hồn bị tổn thương của họ.
Mã Nguy Đô mời một chuyên gia kiến trúc cổ đến xem xét thực địa căn nhà, phản hồi nhận được khiến Tống Duy Dương rất cạn lời.
Cái nhà nát đó có phần móng hư hỏng nhiều chỗ, hơn tám mươi phần trăm vật liệu gỗ bị mục nát nghiêm trọng. Vài chỗ không thể sửa chữa được, chỉ có thể phá đi xây lại. Lại còn đường dây điện chằng chịt, bừa bãi như mạng nhện, đặt trong kiến trúc cổ thì quả là phá hỏng cảnh quan.
Chuyên gia kiến trúc cổ nói, nếu muốn tu sửa hoàn hảo, đồng thời kết hợp một cách hợp lý với một số công trình hiện đại, ít nhất cũng phải bỏ ra hàng triệu tệ nữa. Nếu Tống Duy Dương muốn sử dụng vật liệu gỗ, sơn tốt nhất, lại mời những người thợ giỏi nhất để phục chế một phần, rồi làm thêm non bộ, đình đài gì đó, thì năm triệu tệ cũng có thể tiêu hết.
Năm triệu tệ, đủ để mua một biệt thự vườn rộng lớn ở khu Tam Hoàn.
Bản quyền nội dung này thuộc về truyen.free, xin đừng quên điều đó khi thưởng thức những dòng chữ này.