Menu
Đăng ký
Truyện
← Trước Sau →
Truyen.Free

(Đã dịch) Trùng Sinh Dã Tính Thời Đại - Chương 529 : 【 nhân tài cùng thiết bị 】

Trong nhà xưởng ở khu công nghiệp Trương Giang, một lô thiết bị vừa được vận chuyển về nước đang trong quá trình điều chỉnh và thử nghiệm.

Trương Như Kinh dẫn Tống Duy Dương tiến thẳng vào nhà xưởng. Ông không chủ động trò chuyện với nhân viên, và các nhân viên cũng hoàn toàn xem như ông không tồn tại, tất cả đều bận rộn với c��ng việc của riêng mình.

Tống Duy Dương tự giễu nói: "Mấy năm trước đây, tôi đã muốn thành lập một doanh nghiệp sản xuất chip. Lúc đó, tôi có chút tiền trong tay, thế là tôi nổi hứng muốn thử sức với công nghệ đỉnh cao, nhưng sau khi cẩn thận hỏi thăm Viện sĩ Nghê, tôi đã vội vàng từ bỏ ý nghĩ hão huyền đó."

"Ha ha ha!" Trương Như Kinh cười phá lên.

Một người dân tộc chủ nghĩa kiên định như Viện sĩ Nghê, một lòng muốn tự chủ chip và hệ điều hành, nhưng ông ấy còn không dám nói đến chuyện tự mình mở nhà máy sản xuất chip, chỉ có thể thiết kế chip thật tốt rồi để các công ty Đài Loan gia công hộ.

Có ba khó khăn chính: Một là tiền, hai là nhân sự, ba là máy móc.

Trong ba yếu tố khó khăn này, tiền bạc lại là thứ dễ giải quyết nhất. Nếu chính phủ thực sự muốn làm, dù có phải đập nồi bán sắt cũng có thể huy động được mấy chục tỷ.

Cái khó khăn thật sự là nhân tài và máy móc. Trong suốt 20 năm qua, chính phủ Trung Quốc đã đổ đủ loại tiền của để phát triển chất bán dẫn. Nhưng nếu không có nhân tài đủ năng lực, dù các giáo sư và sinh viên của Thanh Hoa hay Trung Khoa Đại có giỏi đến mấy, cũng không thể từ con số không mà nắm giữ được kỹ thuật liên quan. Lúc bấy giờ, những người phụ trách việc nhập khẩu kỹ thuật đều là lứa người trưởng thành vào những năm 60 và 70. Vậy họ đã có thể học được những kiến thức gì trong những năm đó? Cho dù dùng tiền để mua kỹ thuật, ngày ngày sao chép bản vẽ của người khác, cũng không thể nào hiểu rõ toàn bộ kỹ thuật, chưa nói đến việc tiến thêm một bước để nghiên cứu và phát triển công nghệ.

Những nhà lãnh đạo muốn làm được điều gì đó liền suy nghĩ rằng, nếu chưa từng có nhân tài cứng cựa, vậy chúng ta sẽ mất thời gian từ từ bồi dưỡng. Thế là họ không ngừng dùng tiền để nhập khẩu kỹ thuật, nhập khẩu thiết bị, liên doanh với các tập đoàn đa quốc gia, vừa thực hiện quá trình sản xuất thực tế, vừa tích lũy kỹ thuật và nhân tài. Dòng suy nghĩ này có thể áp dụng được cho các ngành nghề khác, bao gồm rất nhiều ngành sản xuất, và quả thực đã thành công.

Nhưng, lại có những thứ như "��ịnh luật Moore", có một tổ chức tên "Batumi", và một hiệp định gọi là "Thỏa thuận Wassenaar".

Nội dung của Định luật Moore là: Khi giá cả không thay đổi, số lượng linh kiện chủ yếu mà một bộ vi xử lý có thể chứa sẽ tăng gấp đôi khoảng mỗi 18-24 tháng, và hiệu suất cũng sẽ tăng lên gấp đôi.

Trong khi đó, Batumi và Thỏa thuận Wassenaar lại quy định: hạn chế xuất khẩu các thiết bị công nghệ cao tiên tiến nhất sang Trung Quốc. Thiết bị kỹ thuật được phép xuất khẩu thường chậm hơn hai thế hệ so với công nghệ tiên tiến nhất (thêm thời gian nhập khẩu và thời gian để "tiêu hóa" công nghệ, Trung Quốc thường nhận được kỹ thuật lạc hậu ba thế hệ).

Những yếu tố này chồng chất lên nhau, dẫn đến việc Trung Quốc nhập khẩu một lượng lớn kỹ thuật và thiết bị lạc hậu. Một hai năm đầu có lẽ còn tạm đủ, nhưng chưa kịp tiêu hóa hết, những kỹ thuật và thiết bị này đã bị đào thải triệt để. Thế là các dự án được quốc gia hậu thuẫn liền tuyên bố thất bại. Vài năm sau, chính phủ vẫn không cam tâm, lại đổ thêm hàng tỷ nhân dân tệ để nhập khẩu kỹ thuật và thiết bị, kết quả là chúng lại nhanh chóng bị đào thải.

Vì vậy, mấy năm trước khi Tống Duy Dương còn chẳng hiểu gì, trong tay có chút tiền đã muốn sản xuất chip, đến khi ông ấy hiểu rõ tình hình thực tế thì nhanh chóng từ bỏ ý định. Không nói đến những thứ khác, ngay cả thiết bị ông ấy cũng không mua được. Mua đồ lạc hậu hai ba thế hệ thì có ích gì chứ?

Hiện tại, Tống Duy Dương vô cùng tò mò, nhìn chằm chằm những thiết bị trong nhà xưởng và hỏi: "Trương tiên sinh, ông đã làm thế nào để có được những thiết bị tiên tiến này?"

Trương Như Kinh cười đáp: "Ông đoán xem."

Tống Duy Dương dò xét hỏi: "Goldman Sachs đang ngầm ra tay?"

Trương Như Kinh gật đầu nói: "Goldman Sachs và Walden đã đứng ra bảo lãnh, còn bỏ tiền ra để thuyết phục một số bộ ngành của Mỹ."

"Cái này thì nghe có lý hơn." Tống Duy Dương ngay lập tức thông suốt mọi chuyện.

Năm ngoái, Trương Như Kinh bị buộc phải rời khỏi vị trí chủ chốt trong ngành bán dẫn, và tuyên bố sẽ đến đại lục mở công ty. Khi tin tức này được lan truyền, rất nhiều doanh nghiệp từ Trung Quốc đại lục, Đài Loan, Singapore và Mỹ thậm chí đã chủ động liên hệ Trương Như Kinh để rót vốn, chỉ trong hai tháng đã huy động được 1 tỷ đô la.

Trong số đó có Goldman Sachs và Walden, đều là những công ty có sức ảnh hưởng cực lớn tại Mỹ. Sự hỗ trợ của họ đã khiến việc mua sắm thiết bị kỹ thuật cao trở nên tương đối đơn giản.

Hiện tại, trong mười cổ đông lớn nhất của Trung Tâm Quốc Tế, Goldman Sachs chiếm cổ phần thứ nhất, Walden chiếm cổ phần thứ hai, Công nghệ Thần Châu chiếm cổ phần thứ ba, Thượng Thực (doanh nghiệp nhà nước) chiếm cổ phần thứ tư, Hambrecht (Mỹ) chiếm cổ phần thứ năm, Vertex (Singapore) chiếm cổ phần thứ sáu. Nói trắng ra, đây là một công ty liên doanh với "máu" từ nhiều quốc gia.

Đội ngũ hơn 300 người mà Trương Như Kinh mang tới cũng không phải hoàn toàn đến từ Đài Loan, mà còn có các lập trình viên mang quốc tịch Singapore, thậm chí có người từng theo ông từ Texas Instruments sang. Trong số quản lý cấp cao của công ty cũng có người Mỹ, người Ý và nhiều bạn bè quốc tế khác. Trong tương lai, còn có thể có thêm cả phái du học sinh về nước và ph��i bản địa (từ Thanh Hoa), cùng với phái sáng lập viên Đài Loan. Phe phái càng nhiều, càng phức tạp, chỉ có Trương Như Kinh mới có thể trấn giữ được cục diện.

Đợi đến khi Trung Tâm Quốc Tế phải đối mặt với các vụ kiện, tiền đồ mịt mờ, rất nhiều nhân viên người nước ngoài liền tự động rời đi. Các cổ đông như Goldman Sachs cũng lần lượt thoái vốn, các doanh nghiệp trong nước thừa cơ gia tăng đầu tư, biến Trung Tâm Quốc Tế hoàn toàn thành một công ty "mang huyết thống Trung Quốc".

Trong tình huống như vậy, mỗi một tổng giám đốc mới nhậm chức, vấn đề hàng đầu không phải là nắm bắt kỹ thuật và thị trường, mà là làm thế nào để nắm giữ quyền điều hành công ty, cân bằng các cuộc đấu tranh phe phái. Tổng giám đốc mạnh mẽ sẽ trực tiếp áp đảo, ai không nghe lời thì "cút đi". Tổng giám đốc yếu thế chỉ có thể làm hòa giải viên, phát triển khó khăn trong ma sát triền miên. Còn tổng giám đốc vô dụng nhất thì trực tiếp khiến Trung Tâm Quốc Tế sụp đổ.

Hơn nữa, ba cổ đông lớn cũng không hề hết lo lắng, bởi vì tỷ lệ nắm giữ cổ phần của họ quá gần nhau, không ai có thể thực sự nắm quyền kiểm soát công ty, có thể đánh nhau đến mức đầu rơi máu chảy.

Tống Duy Dương đứng trong xưởng nhà máy, bỗng nảy ra một ý nghĩ, đó chính là thuận theo tự nhiên, để Trung Tâm Quốc Tế trải qua một lần đại suy thoái. Chỉ khi công ty ở vào thời điểm nguy hiểm nhất, những cổ đông nước ngoài như Goldman Sachs, Walden, Hambrecht, Vertex mới có thể sẵn lòng bán đi cổ phần đang nắm giữ, lúc đó Công nghệ Thần Châu mới có cơ hội giành quyền kiểm soát cổ phần của Trung Tâm Quốc Tế.

Cần phải biết rằng, Trương Như Kinh có năng lực quá mạnh mẽ, với 10 tỷ nhân dân tệ vốn khởi động trong tay, vậy mà chỉ trong vòng hai năm đã đưa Trung Tâm Quốc Tế lên vị trí thứ tư toàn cầu. Một con gà mái đẻ trứng vàng như vậy, nếu không phải bị chèn ép đến mức khó thở, làm sao những cổ đông nước ngoài kia có thể cam lòng buông bỏ?

Mà nếu Công nghệ Thần Châu không thể giành được quyền kiểm soát cổ phần, thì làm sao có thể đảm bảo Trung Tâm Quốc Tế phát triển ổn định lâu dài?

Vậy thì cứ để TSMC khởi kiện vì xâm phạm bản quyền, đẩy Trung Tâm Quốc Tế vào tình trạng báo động sắp đóng cửa. Lúc đó Công nghệ Thần Châu sẽ ra tay đổ tiền thâu tóm, đồng thời bảo vệ Trương Như Kinh, vị tổng giám đốc có thể trấn giữ cục diện này!

Ngoài ra, điều quan trọng là chú trọng việc thu hút và bồi dưỡng nhân tài: một là chiêu mộ du học sinh về nước, hai là tự mình "tạo máu" (đào tạo).

Như chúng ta đã nói ở trên, những năm 90, Trung Quốc không có nhân tài liên quan, nhưng sau năm 2000 lại đột nhiên xuất hiện.

Những nhân tài này không phải tự nhiên mà có được, mà nhất định phải học xong đại học ở Trung Quốc, sau đó sang Mỹ đào tạo chuyên sâu, và làm việc nhiều năm tại các tập đoàn đa quốc gia, mới có thể nắm giữ được kỹ thuật bán dẫn tiên tiến thực sự hữu ích. Từ khi những sinh viên này ra nước ngoài cho đến khi về nước, thời gian ít nhất phải 10 năm trở lên, nếu không, những người trở về chỉ là "bán thành phẩm"!

Nghĩa là, nhất định phải là những nhân tài xuất ngoại từ thập niên 80, sau khi về nước mới có thể gánh vác cả bầu trời ngành bán dẫn của Trung Quốc.

Trong lịch sử, những "ông lớn" trong ngành thiết kế chip của Trung Quốc, rất nhiều người đều lần lượt về nước sau năm 2000, trong đó không ít người đã bị Huawei và ZTE chiêu mộ. Còn những "ông lớn" trong ngành sản xuất chip thì hơn 99% đều về nước sau năm 2000.

Sau năm 2000 có một làn sóng du học sinh về nước, bởi vì trong năm này đã ban hành "Ý kiến về việc khuyến khích lưu học sinh trở về Trung Quốc", kêu gọi các doanh nghiệp nhà nước và cơ quan tự chủ thu hút du học sinh về nước. Nếu những du học sinh này sau khi về nước chủ trì các dự án nghiên cứu khoa học, hơn nữa là các dự án có trình độ quốc tế tiên tiến hoặc đang rất cần thiết trong nước, thì sẽ trực tiếp được quốc gia cung cấp toàn bộ kinh phí nghiên cứu khoa học.

Những du học sinh này sau khi về nước đảm nhiệm các chức vụ quan trọng, vẫn có thể tiếp tục giữ Thẻ Xanh của Mỹ, điều mà trước đây tuyệt đối không được phép. Hơn nữa, nếu họ về nước nhậm chức một thời gian rồi từ bỏ Thẻ Xanh của Mỹ, vẫn có thể đảm nhiệm người đại diện pháp luật cho các doanh nghiệp nhà nước và cơ quan. Điều này cũng là quy định mới chỉ có sau năm 2000. Trước đây, nếu đã từng sở hữu Thẻ Xanh của Mỹ, trừ khi có phê chuẩn đặc biệt, nếu không sẽ không thể đảm nhiệm chức danh pháp nhân của doanh nghiệp nhà nước hay cơ quan.

Thậm chí, nếu những du học sinh này có người nhà định cư ở nước ngoài, thu nhập có thể được chuyển ra nước ngoài trực tiếp dưới hình thức kết hợp, và hàng năm còn được nghỉ phép đặc biệt để ra nước ngoài thăm thân. Nếu họ chuyển gia đình về Trung Quốc, thì công việc của vợ/chồng sẽ được hỗ trợ giải quyết, việc học hành của con cái cũng được hỗ trợ sắp xếp. Thậm chí có quy định phải sắp xếp con cái vào những trường song ngữ, lớp song ngữ có điều kiện tốt nhất gần nơi ở, và con cái của những du học sinh này khi tham gia thi cấp ba và đại học còn có thể được cộng điểm.

Ngay khi "Ý kiến" nhằm vào các du học sinh cấp cao này được ban hành, lập tức đã tạo nên làn sóng du học sinh về nước đầu thế kỷ 21. Sau đó, những du học sinh này đã tràn ngập trong các ngành nghề tiên tiến khác nhau của đất nước.

Hơn nữa, rất nhiều du học sinh cấp cao không cần những phúc lợi này, cũng không cần quốc gia phải lo lắng cho cuộc sống của vợ con, cha mẹ, nhưng họ vẫn chọn từ bỏ mức lương cao để về nước. Bởi vì chính sách này đã phát đi một tín hiệu đặc biệt, đó là quốc gia vô cùng coi trọng nhân tài kỹ thuật cấp cao, và họ có thể "một đường đèn xanh" (thuận lợi) khi về nước lập nghiệp!

Bản quyền của văn bản này được bảo vệ bởi truyen.free.

Trước Sau

Cài đặt đọc truyện

Màu nền:
Cỡ chữ:
Giãn dòng:
Font chữ:
Ẩn header khi đọc
Vuốt chuyển chương

Danh sách chương

Truyen.Free