(Đã dịch) 1979 Hoàng Kim Thì Đại - Chương 196 : Phim hoạt họa
Giữa lúc giới văn nghệ trong nước đang náo nức chờ đợi giải Kim Kê Bách Hoa, Liên hoan phim Cannes – một trong ba liên hoan phim lớn nhất châu Âu – đã chính thức khai mạc.
Isabelle Adjani vừa giành được vương miện Ảnh hậu, với hai tác phẩm cùng tranh giải: *Bốn Tầng Tấu* và *Mê Muội*. Đặc biệt, *Mê Muội* được nhắc đến nhiều vì có cảnh thân mật giữa Adjani và ma quỷ...
Sau Liên hoan phim Berlin đầu năm là điểm khởi đầu, năm nay đánh dấu sự mở màn chính thức cho phim điện ảnh nội địa vươn ra biển lớn. Đoàn đại biểu điện ảnh Trung Quốc cũng lần đầu tiên tới Cannes, mang theo hai tác phẩm *Thiên Sứ Đường Phố* và *Tam Mao Lưu Lạc Ký* để chiếu giới thiệu, chứ không phải tranh giải.
Tác phẩm đầu tiên tham dự tranh giải phải đợi đến năm sau, với bộ phim *AQ Chính Truyện*.
Thực tế, vào giai đoạn này, dù người phương Tây có muốn xem phim Trung Quốc nhưng bản thân họ cũng chưa thực sự rõ muốn xem thể loại nào.
Cho đến khi thế hệ đạo diễn thứ năm xuất hiện, họ đã hoàn hảo lấp đầy khoảng trống này. Với các tác phẩm tiêu biểu như *Hoàng Thổ* của Trần Khải Ca và *Cao Lương Đỏ* của Trương Nghệ Mưu, khán giả nước ngoài đã xem và thốt lên: "Ồ! Đúng rồi, chúng tôi thích xem thể loại này đây, các anh cứ làm tiếp đi!"
Vậy họ muốn xem cái gì?
Đó là những câu chuyện về dân tộc, sự man rợ, lạc hậu, về một xã hội phong kiến với những hủ tục biến thái, về những người đàn ông và phụ nữ bị áp bức, về những người thức tỉnh đấu tranh chống lại kẻ bảo thủ. Nếu có thể thêm vào chút bối cảnh lịch sử hỗn loạn hay bi kịch, thì càng hợp gu phương Tây.
Ban đầu, việc đạt giải có lẽ là ngẫu nhiên, chẳng hạn như với *Cao Lương Đỏ*.
Sau đó, sự hưởng ứng đó dần trở thành một xu hướng có chủ đích, như các bộ phim *Cúc Đậu* hay *Đèn Lồng Đỏ Treo Cao*.
Không bàn đến giá trị thực sự của những bộ phim đó, chỉ riêng các đạo diễn và các nhà đầu tư nước ngoài cũng đều rõ rằng, làm loại phim này sẽ được hoan nghênh và có tỉ lệ thắng giải cao tại các liên hoan phim. Đó chính là cách phương Tây định nghĩa điện ảnh Trung Quốc, và đồng thời, cũng là cách điện ảnh Trung Quốc tự nguyện để người khác định nghĩa mình.
Đến cuối thập niên 90, xã hội Trung Quốc đã phát triển hơn, việc tiếp tục làm phim về lễ giáo phong kiến hay bối cảnh hỗn loạn trở nên quá xa vời. Vì vậy, thế hệ đạo diễn thứ sáu đã ra đời để đáp ứng tình hình.
Họ làm phim về những tầng lớp đứng bên lề xã hội trong giai đoạn chuyển mình của đất nước. Và thế là, người phương Tây lại tìm thấy một "điểm G" mới.
Thế hệ thứ năm ít nhiều còn từng thử chuyển mình, còn thế hệ thứ sáu thì lao thẳng vào lối mòn, sớm biến thành cái khuôn mẫu mà người khác mong muốn, kéo dài cho đến tận ngày nay. Chẳng hạn như Lâu Diệp, làm một bộ phim "phản ánh" tình hình dịch bệnh trong nước, rồi mang đi Cannes để bợ đỡ người ta.
Kết quả là, một nhóm khán giả nước ngoài đã xem suất chiếu đặc biệt, nhưng giữa chừng lại lũ lượt bỏ về, thậm chí còn chấm 0 điểm.
Ý đồ của Lâu Diệp là phê phán những hành vi độc đoán, thiếu nhân đạo trong nước, nhưng dưới góc nhìn của người nước ngoài, thì đó lại giống như một sự tự hạ thấp: "Dù các anh có cha chết mẹ thối giày, có xe chở tử thi và hàng dài người đau khổ, thì chúng tôi vẫn là người không thể đặt mua đồ ăn suốt ba tháng! Ba tháng không được ra khỏi nhà!"
Người nước ngoài sẽ không nghĩ rằng anh ta đang châm biếm Trung Quốc, mà ngược lại, họ cho rằng anh ta đang tự châm biếm chính mình.
Cho đến tận ngày nay, tiếng nói của điện ảnh Trung Quốc vẫn không theo kịp sự gia tăng quyền lực quốc gia. Một phần là vì thiếu chí khí, nhưng xét đến cùng, cội rễ của vấn đề nằm ở thập niên 80.
...
Như đã đề cập, Trần Kỳ vừa viết kịch bản ở Hàng Châu, vừa chờ đợi giải thưởng, và thỉnh thoảng lại mời Hà Tình, cô gái nhỏ nhắn mũm mĩm, đi ăn cơm.
Thoáng chốc đã đến ngày 22 tháng 5, đêm trước buổi lễ chính thức.
Dường như tất cả những nhân sĩ văn nghệ có tiếng tăm trên cả nước đều tề tựu về Hàng Châu.
Hãng phim Bắc Kinh cử một đoàn người đến, dẫn đầu là Vương Hảo Vi với tác phẩm *Lư Sơn Luyến*. Hãng phim Điện ảnh Thượng Hải thì càng nổi bật, với hai bộ phim ăn khách *Truyền Thuyết Thiên Vân Sơn* và *Mưa Đêm Ba Sơn* đều là của họ. Đạo diễn Tạ Tấn lừng danh cũng góp mặt.
Nói một cách đơn giản, buổi lễ lần này chính là cuộc đối đầu giữa *Lư Sơn Luyến* và hai bộ phim kia.
Những bộ còn lại chỉ là "lót đường".
Lần này không có bất kỳ thứ gì hào nhoáng, không họp báo, không buổi gặp mặt ngôi sao, không thảm đỏ. Nó giống một buổi liên hoan thân mật hơn trong giới văn nghệ. Một nhóm người vốn ít khi có dịp gặp gỡ, nay khó khăn lắm mới tề tựu, họ tự do ghé thăm nhau, trò chuyện hỏi han.
Trần Kỳ rời khỏi khách sạn đang ở, và đến khách sạn do ban tổ chức sắp xếp.
Anh cũng có ý định thăm hỏi một vài người, nhưng không phải những ngôi sao đình đám, mà là một nhóm những nhân vật vô cùng "lãnh môn" trong giới văn nghệ.
"Không biết các vị lãnh đạo nghĩ gì, lại mang *Thiên Sứ Đường Phố* và *Tam Mao Lưu Lạc Ký* đi tham dự triển lãm. Đó là những tác phẩm từ mấy chục năm trước rồi, người Pháp xem vào, khéo lại nghĩ chúng ta vẫn còn là xã hội cũ thì sao!"
Trong căn phòng, Từ Cảnh Đạt đang nâng niu một cuốn tạp chí chuyên ngành và cùng bàn luận về Liên hoan phim Cannes.
Mã Khắc Tuyên cười nói: "Đó là lựa chọn an toàn nhất thôi. Ai mà biết mang phim khác đi có xảy ra chuyện gì không? Này, lão Từ, xem ý này, trong nước đang cố ý vươn ra thị trường nước ngoài. Hay là chúng ta cũng nên xin một suất nhỉ?"
"Xin tham gia triển lãm à?"
"Không, là tranh giải! Về phim người đóng, chúng ta không dám nói gì, nhưng phim hoạt hình thì, ha ha, điện ảnh hoạt hình Trung Quốc chưa từng ngán ai đâu!"
Hai người họ đều là đạo diễn của Hãng phim Hoạt hình Thượng Hải, từng tham gia hoặc đạo diễn các tác phẩm lừng danh như *Đại Náo Thiên Cung*, *Mục Địch*, *Na Tra Náo Hải*. Lần này, họ mang đến bộ phim *Ba Tên Hòa Thượng*.
"Để *Ba Tên Hòa Thượng* ra nước ngoài ư? Liệu có ổn không?"
"Hoàn toàn được chứ, nội dung bộ phim này có hợp ý lãnh đạo hay không thì chúng ta còn lạ gì nữa..."
"Cốc cốc cốc!"
Hai người đang trò chuyện thì nghe tiếng gõ cửa. Từ Cảnh Đạt ra mở, thấy một chàng trai lạ mặt tự giới thiệu: "Chào hai vị tiền bối, cháu là Trần Kỳ, đặc biệt đến đây để bái phỏng!"
Trần Kỳ?! Từ Cảnh Đạt và Mã Khắc Tuyên đương nhiên đã nghe danh anh, nhưng đều cảm thấy khó hiểu: "Anh ta tìm chúng ta – những người làm phim hoạt hình – làm gì nhỉ?"
"À, mời vào! Mời vào!"
"Chuyến ghé thăm này của cậu làm chúng tôi khá bất ngờ đấy!"
"Cháu xin mạo muội. Các tác phẩm của hai vị, cháu đã xem không dưới mười lần, thực sự rất tâm đắc. Biết hai vị đang ở đây nên cháu mới đánh bạo đến làm phiền, mong hai vị thứ lỗi."
Trần Kỳ rất khách sáo, hai người họ cũng không tiện đuổi khách, liền cười nói: "Cậu cứ ngồi xuống đi. Lễ trao giải vốn là dịp đại đoàn viên của giới văn nghệ. Chẳng qua, không ng��� cậu là người làm phim người đóng mà lại còn thích phim hoạt hình sao?"
"Ôi, phim hoạt hình thường bị đánh giá thấp một cách nghiêm trọng. Cháu luôn nghĩ rằng phim hoạt hình phù hợp với mọi lứa tuổi, rất có giá trị, và theo một khía cạnh nào đó, còn đáng để truyền bá hơn cả phim người đóng nữa."
Trần Kỳ một hồi thao thao bất tuyệt, nhanh chóng kéo gần khoảng cách. Ba người trò chuyện sôi nổi, bàn về không ít nội dung liên quan đến ngành công nghiệp hoạt hình trong và ngoài nước.
Điện ảnh hoạt hình Trung Quốc, bắt đầu từ *Đại Náo Thiên Cung* năm 1961, rồi đến *Na Tra Náo Hải*, *Mục Địch*, *Ba Tên Hòa Thượng*, *A Phàm Nói*, *Tuyết Hài Tử*, *Cửu Sắc Lộc*, *Thần Bút Mã Lương*. Kế đó là các phim dài tập như *Hồ Lô Oa*, *Shook & Beta*, *Tòa Nhà Rubik*, *Dơ Dáy Đại Vương*... quả thực đã cho ra đời một loạt kiệt tác.
Phim hoạt hình điện ảnh càng được chào đón nồng nhiệt ở nước ngoài, giành về không ít giải thưởng danh giá.
Đáng tiếc, cuối thập niên 90 nó lại suy thoái, với tác phẩm cuối cùng vang dội là *Bảo Liên Đăng*. Phải mất gần 20 năm sau, ngành này mới bắt đầu trỗi dậy trở lại...
Trần Kỳ đến đây cốt để làm quen, bởi phim hoạt hình là một mắt xích cực kỳ quan trọng trong kế hoạch của anh. Sau khi trò chuyện đủ thứ chuyện trên trời dưới biển, đến lúc ra về anh mới hỏi vào chuyện chính: "Xin được thỉnh giáo một chút, nếu muốn làm một bộ phim hoạt hình có độ dài và độ khó tương tự như *Na Tra Náo Hải*, thậm chí còn khó hơn, thì ước chừng mất bao lâu?"
"Chúng tôi bắt đầu chuẩn bị vào tháng 5 năm 1978 và hoàn thành vào tháng 8 năm 1979, tổng cộng mất một năm ba tháng." Từ Cảnh Đạt đáp.
"Nhanh vậy sao? À, ý tôi là, tôi cứ tưởng phải mất vài năm mới hoàn thành chứ!"
"Điều này còn tùy thuộc vào độ khó cụ thể của khâu vẽ. Các hình tượng nhân vật, trang phục, bối cảnh, đạo cụ trong *Na Tra Náo Hải* thực ra đều khá đơn giản. *Đại Náo Thiên Cung* mới gọi là phức tạp, riêng việc vẽ cho cả hai phần đã mất đến hai năm rồi."
"Vậy còn chi phí thì sao ạ?"
"..."
Từ Cảnh Đạt và Mã Khắc Tuyên nhìn nhau một cái, trong lòng chợt nhen nhóm một ý nghĩ. Họ không nói cụ thể mà đưa ra một con số ước chừng: "Phải hơn một triệu tệ đấy!"
"À, vậy... Được rồi, hôm nay cháu đã làm phiền hai vị quá nhiều, giờ cháu xin phép!" Trần Kỳ nói.
Trần Kỳ đã có được khái niệm về thời gian và chi phí cần thiết để làm một bộ phim hoạt hình, anh liền đứng dậy cáo từ.
Đương nhiên anh không định bắt tay vào làm ngay bây giờ mà sẽ đợi công ty tích lũy thêm chút vốn. Nhưng nhân lúc nhóm họa sĩ tinh anh của Hãng phim Mỹ thuật Thượng Hải vẫn còn ở đây, làm thêm vài bộ nữa mới không uổng công anh đến một chuyến này.
Bản quyền của văn bản đã được biên tập này thuộc về truyen.free, mọi hình thức sao chép đều không được phép.