(Đã dịch) Dân Quốc Chi Văn Hào Quật Khởi - Chương 848 : ( mậu dịch cùng chiến tranh )
848 (Mậu dịch và Chiến tranh)
Một bức điện báo từ Lão Tưởng đã giữ chân Chu Hách Huyên ở Quảng Châu – chờ đợi người.
Kết quả là, Chu Hách Huyên có thể dốc sức viết tiểu thuyết và đã sắp hoàn thành bộ cuối cùng của (Hắc Thổ). Phải đợi đến đầu tháng Năm, cuối cùng thì Trần Quang Phủ, Tịch Đức Mậu và Nhâm Tự Đạt cùng đoàn người cũng đã tới.
Trần Quang Phủ là một chủ ngân hàng, được mệnh danh là "Morgan của Trung Quốc", đương nhiệm cố vấn cấp cao Bộ Tài chính Quốc dân chính phủ, kiêm chủ nhiệm Ủy ban Thương mại thuộc Bộ Tổng tư lệnh thời chiến (hàm trung tướng).
Tịch Đức Mậu là chuyên gia tài chính, ủy viên Ủy ban Quỹ Bình chuẩn Bộ Tài chính Quốc dân chính phủ, cục trưởng Cục Nghiệp vụ Ngân hàng Trung Quốc, được lệnh thường trú tại Hong Kong, phụ trách duy trì tỷ giá hối đoái quốc tế của pháp tệ.
Nhâm Tự Đạt là một thương nhân mậu dịch, chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu khoáng sản, có mối quan hệ rộng rãi ở các nước Âu Mỹ.
Ba người được Lão Tưởng phái tới, đương nhiên là để sang Mỹ tìm kiếm khoản vay. Ngay cả khi không có Chu Hách Huyên, họ cũng đã có kế hoạch đến Mỹ, chỉ là sớm hơn vài tháng mà thôi.
Trong lịch sử, Tưởng Giới Thạch bị thiếu hụt tài chính làm cho lòng như lửa đốt, không ngừng thúc giục Khổng Tường Hi mau chóng ra nước ngoài tìm kiếm tài trợ. Khổng Tường Hi đã tìm đến Trần Quang Phủ, bởi Trần Quang Phủ có mối giao tình sâu sắc với gia tộc tư bản Morgan của Mỹ, muốn dựa vào quan hệ cá nhân để tạo ra một đột phá.
Viện trưởng Khổng Tường Hi của chúng ta không có bất kỳ phương án cầu viện nào, thậm chí ngay cả con số cần vay cũng không rõ ràng, nhưng lại ra giá trên trời, yêu cầu Trần Quang Phủ ít nhất phải tranh thủ được khoản vay từ 300 đến 400 triệu USD.
Trần Quang Phủ thầm rủa trong lòng, 300 triệu USD ư, vay làm sao nổi? Ông ta thậm chí còn không tự tin vay được 3 triệu USD. Thế là viện cớ bệnh tật để trì hoãn, nhưng bị Lão Tưởng và Lão Khổng liên tục thúc giục suốt mấy tháng, Trần Quang Phủ mới đành nhắm mắt lên đường đi Mỹ.
Ban đầu, cuộc đàm phán của Trần Quang Phủ và đoàn người diễn ra rất không thuận lợi. Nhưng theo sau việc Quảng Châu và Vũ Hán lần lượt bị chiếm đóng, Roosevelt và giới tư bản Mỹ có chút hoảng sợ, cảm thấy cần phải giúp Trung Quốc một tay, bằng không nếu Trung Quốc bị Nhật Bản đánh bại hoàn toàn thì còn nói chuyện gì nữa? Thế là, hợp đồng vay tiền mới được đàm phán lại và thành công.
Bây giờ đang lúc Trần Quang Phủ vẫn còn chần chừ không muốn đi, Khổng Tường Hi đã nói với ông ta: "Quang Phủ, Chu Minh Thành có cách giải quyết vấn đề vay tiền. Anh ta làm đặc sứ đàm phán, ông làm phó sứ, nhất định sẽ thành công. Nếu trong lòng ông chưa có phương án, có thể hỏi anh ta trước, tin rằng Chu Minh Thành nhất định có đối sách."
Trần Quang Phủ nghĩ thầm, dù sao việc lớn có người lo, vậy thì cứ đi thôi... Bởi vậy ông ta đã lên đường sớm hơn so với trong lịch sử hai, ba tháng.
Việc Chu Hách Huyên sang Mỹ để tìm kiếm khoản vay chỉ là cái cớ, mục đích chính của anh là tìm mua máy bay. Lão Tưởng gửi điện báo yêu cầu anh chờ người, Chu Hách Huyên còn tưởng rằng đó là vài nhà ngoại giao, kết quả gặp mặt mới phát hiện, lại là một đám người chuyên về tài chính và thương mại sẽ cùng anh hội họp.
Mẹ kiếp!
Đoàn người lên thuyền ở Quảng Châu để đến Mỹ. Dù chưa có manh mối gì về việc vay tiền, họ vẫn ngày ngày ra boong tàu uống cà phê và thảo luận.
Hôm đó trời trong nắng ấm, gió biển thổi nhè nhẹ.
Trần Quang Phủ vừa uống cà phê đắng vừa nói: "Chu ti��n sinh, ông là chuyên gia quốc tế, ông cảm thấy Mỹ liệu có thực sự cho Trung Quốc vay tiền viện trợ không?"
Chu Hách Huyên lắc đầu nói: "Không thể, Mỹ tuyên bố giữ vững trung lập, sẽ không trực tiếp cho Trung Quốc vay tiền. Trừ phi..."
"Trừ phi điều gì?" Tịch Đức Mậu hỏi.
"Trừ phi chúng ta thay đổi cách tiếp cận," Chu Hách Huyên nói, "Thành lập một công ty thương mại ở Mỹ, thông qua hợp tác thương mại, tìm kiếm các khoản vay thương mại tư nhân từ các doanh nghiệp Mỹ. Như vậy sẽ tránh được chính sách ngoại giao trung lập của Mỹ, tạo không gian để Roosevelt có thể hành động."
Trần Quang Phủ vỗ tay tán thưởng: "Cách này hay đấy!"
Tịch Đức Mậu nói: "Nếu là khoản vay thương mại tư nhân, thì cần phải khiến người Mỹ cảm thấy có lợi. Nhâm tiên sinh, ông là chuyên gia mậu dịch quốc tế, Mỹ cần nhất thương phẩm gì từ Trung Quốc?"
"Quặng wolfram đương nhiên!"
Nhâm Tự Đạt lập tức nói: "Quặng wolfram là tài nguyên công nghiệp khan hiếm, mà Trung Quốc là quốc gia cung cấp wolfram lớn nhất toàn cầu. Mỏ wolfram lớn nhất thế giới n���m ở Giang Tây, mỏ wolfram lớn thứ hai thế giới nằm ở Quảng Đông, đây là lợi thế cực lớn của nước ta. Dùng lợi ích từ quặng wolfram để thu hút Mỹ, đối phương chắc chắn sẽ đồng ý."
Chu Hách Huyên hết sức quen thuộc lịch sử cận đại Trung Quốc, biết rõ trong thời kỳ kháng chiến, Mỹ đã năm lần cho Trung Quốc vay tiền, "khoản vay bằng wolfram" chỉ là khoản thứ ba, mà khoản đầu tiên lại là "khoản vay bằng dầu thông".
Đương nhiên, những gì Chu Hách Huyên biết cũng chỉ đến đó, không rõ chi tiết nội dung của năm khoản vay.
Dù sao ngoài các luận văn chuyên ngành, sách lịch sử nhiều lắm cũng chỉ nhắc đến thoáng qua, độc giả cũng sẽ không ăn không ngồi rồi đi nghiên cứu những chi tiết nhỏ nhặt.
Năm khoản vay của Mỹ cho Trung Quốc được gọi lần lượt là: Khoản vay dầu thông, khoản vay quặng thiếc, khoản vay quặng wolfram, khoản vay kim loại và khoản vay tài chính.
Đúng như tên gọi, ba khoản vay đầu tiên lần lượt liên quan đến dầu thông, quặng thiếc và quặng wolfram. Thứ tự này chắc chắn cũng có lý do. Từ đó có thể suy đoán, Mỹ cần nhất là dầu thông, thứ nhì là quặng thiếc, sau đó mới là quặng wolfram.
Chu Hách Huyên lên tiếng hỏi: "Quốc gia nhập khẩu quặng wolfram lớn nhất là nước nào?"
"Nước Đức." Nhâm Tự Đạt nói.
Chu Hách Huyên lại hỏi: "Đức dùng quặng wolfram để làm gì?"
Nhâm Tự Đạt nói: "Nó có nhiều công dụng lắm, dùng để chế tạo máy bay tiên tiến, đạn xuyên giáp, động cơ tàu thủy... Rất nhiều thứ đều cần quặng wolfram."
Chu Hách Huyên gật đầu nói: "Nói cách khác, công dụng chính của quặng wolfram hiện nay là để chế tạo trang bị quân sự."
"Có thể hiểu như vậy." Nhâm Tự Đạt nói.
Chu Hách Huyên tiếp tục hỏi: "Thế còn quặng thiếc thì sao?"
Nhâm Tự Đạt đáp: "Quặng thiếc chủ yếu dùng trong sản xuất công nghiệp, đặc biệt có vai trò quan trọng trong lĩnh vực hóa chất."
"Thế quốc gia nào mua quặng thiếc lớn nhất từ Trung Quốc?" Chu Hách Huyên hỏi.
"A, Mỹ ư... Nhâm Tự Đạt chợt tỉnh ngộ: "Ý của Chu tiên sinh là dùng thương mại quặng thiếc để tìm kiếm khoản vay từ Mỹ sao? Nhưng vấn đề là, quặng thiếc không phải duy nhất ở Trung Quốc, châu Mỹ và Nam Dương đều có trữ lượng lớn, quặng thiếc của Trung Quốc khó mà đủ sức hấp dẫn Mỹ được.""
Chu Hách Huyên nói: "Mấu chốt vấn đề là hiện tại Mỹ chưa tham chiến, mà quặng wolfram chủ yếu dùng trong sản xuất quân sự, đối với Mỹ mà nói không phải là thứ cần kíp nhất. Ngược lại, quặng thiếc được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực hóa chất, có thể khiến giới tư bản Mỹ hài lòng hơn."
Nhâm Tự Đạt bất giác gật đầu nói: "Cũng có lý."
Trần Quang Phủ dứt khoát nói: "Vậy cứ thế đi, chúng ta sẽ coi quặng thiếc và quặng wolfram như những quân bài, đặt lên bàn đàm phán để người Mỹ tùy ý lựa chọn."
Chu Hách Huyên lại nói: "Còn dầu thông thì sao?"
Nhâm Tự Đạt lắc đầu nói: "Tôi chuyên làm mậu dịch xuất nhập khẩu khoáng sản, không rõ lắm về tình hình dầu thông."
Tịch Đức Mậu cười nói: "Dầu thông có ở khắp nơi, giá cả rất rẻ, thậm chí người dân không mua nổi dầu hỏa còn dùng dầu thông để thắp đèn. Lại không phải thứ gì hiếm có, lẽ nào có thể khiến người Mỹ hứng thú được sao?"
"Đúng vậy, Chu tiên sinh sao lại nhắc đến dầu thông?" Nhâm Tự Đạt hỏi.
Chu Hách Huyên làm sao mà biết dầu thông có lợi ích gì được? Anh đâu phải thần tiên. Nhưng tài liệu lịch sử ghi rõ, trước khi ngừng hiệp định thương mại Mỹ-Nhật, Mỹ đã vội vã ký kết hợp đồng vay tiền bằng dầu thông với Trung Quốc, chứ không phải hợp ��ồng thương mại quặng thiếc hay wolfram. Chắc chắn điều này có nguyên nhân!
Những người trên thuyền họ đều là những người am hiểu về tài chính, chỉ có Nhâm Tự Đạt là thương nhân chuyên về mậu dịch. Tiếc rằng ông ta lại là thương nhân chuyên xuất khẩu khoáng sản, không hiểu về dầu thông. Muốn tìm người hỏi về giá trị của dầu thông cũng không biết tìm ai.
Không chỉ có Trần Quang Phủ ba người, ngay cả Chu Hách Huyên chính mình cũng không có nhiều hiểu biết về dầu thông.
Trong ấn tượng của họ, dầu thông là sản phẩm nội địa rẻ tiền, công dụng lớn nhất là dùng để chế tạo sơn. Người dân không mua nổi dầu hỏa có thể thắp đèn dầu thông để chiếu sáng. Đương nhiên còn có thể dùng để xào rau, nhưng dường như có độc nhẹ, hơn nữa mùi vị không ngon, ngay cả tầng lớp bình dân thấp nhất cũng không dễ dàng dùng để ăn.
Thứ này sẽ khiến người Mỹ ngạc nhiên sao?
Ngay sau đó, họ không thảo luận thêm về dầu thông nữa, mà bắt đầu bàn bạc chiến lược đàm phán, dự định xoay quanh quặng wolfram và quặng thiếc để tính toán l��n.
Sau khi cập bến Mỹ, Chu Hách Huyên lập tức bỏ tiền tìm một cố vấn thương mại, hỏi cặn kẽ về tình hình dầu thông ở Mỹ. Kết quả không hỏi thì không biết, hỏi rồi mới giật mình, dầu thông ở Mỹ hóa ra lại "khủng khiếp" đến vậy!
Trước đây, khi sản xuất sơn, người Mỹ dùng dầu hạt lanh cho các sản phẩm cao cấp nhất. Nhưng sau khi dầu thông Trung Quốc được đưa đến Mỹ, dầu hạt lanh lập tức bị thay thế. Đến những năm 1930, hơn 90% ngành sơn của Mỹ đều sử dụng dầu thông làm nguyên liệu.
Mà Thượng Hải chính là thị trường giao dịch dầu thông lớn nhất Trung Quốc. Khi Thượng Hải thất thủ, lượng dầu thông nhập khẩu của Mỹ giảm mạnh, đã gần như đẩy các doanh nghiệp sản xuất sơn của Mỹ đến bờ vực phá sản. Quảng Châu lại là thị trường dầu thông lớn thứ hai của Trung Quốc. Một khi Quảng Châu thất thủ, giới tư bản ngành sơn của Mỹ sẽ muốn nhảy lầu tự tử ngay lập tức.
Không chỉ vậy, do dầu thông có tính dễ cháy, khả năng kết dính nhanh và chịu axit tốt, nó là nguyên liệu không thể thay thế để sản xuất t��u chiến, tàu thủy, tàu ngầm, máy bay, dây điện và cáp ngầm dưới biển vào thời điểm đó. Các loại nguyên liệu tương tự khác cũng không mang lại hiệu quả tốt bằng dầu thông.
Ngoài ra, các nhà khoa học Mỹ còn đun nóng dầu thông đến một nhiệt độ nhất định để nó đông đặc thành dạng keo, dùng làm vật liệu thay thế cao su. Dầu thông còn có thể dùng trong y dược, lĩnh vực sản xuất thủy tinh, và cũng có thể dùng làm sản phẩm tinh chế thay thế xăng trong công nghiệp.
Cần phải nói rõ rằng, dầu thông chỉ được sản xuất ở Trung Quốc, không có ở nơi nào khác. Thế nhưng Mỹ lại là quốc gia nhập khẩu dầu thông lớn nhất, chiếm 75% tổng lượng nhập khẩu dầu thông toàn cầu. Hiện tại, đã có đến 850 loại sản phẩm công nghiệp Mỹ cần sử dụng dầu thông!
Vào thời nhà Thanh, Mỹ đã bắt đầu trồng cây đồng (tạo dầu thông) trên đất liền, nhưng hiệu quả không mấy khả quan. Có lẽ là do vấn đề khí hậu và thổ nhưỡng, đầu những năm 1930, người Mỹ lại sang Nam Dương trồng cây đồng với số lượng lớn, nhưng vẫn không đạt được hiệu quả đáng kể, hoàn toàn không thể đáp ứng nhu cầu công nghiệp của Mỹ.
Một khi giao dịch dầu thông giữa Trung Quốc và Mỹ bị cắt đứt hoàn toàn, vô số nhà tư bản Mỹ sẽ lo sốt vó, đứng ngồi không yên.
Thảo nào trong lịch sử, sau khi Quảng Châu thất thủ, Roosevelt đã hoang mang, vội vã muốn ký kết hợp đồng vay tiền bằng dầu thông với Trung Quốc – tất cả là do bị giới tư bản thúc ép mà thôi.
Việc ủng hộ Trung Quốc hay ủng hộ Nhật Bản, ở Mỹ, đó là một ván cờ của giới tư bản.
Vì trong thương mại ở khu vực Viễn Đông, Mỹ có 43% giao dịch với Nhật Bản, trong khi giao dịch với Trung Quốc chỉ chiếm 14%. Về mặt đầu tư, Mỹ đầu tư vào Nhật Bản 3,87 tỉ USD, còn vào Trung Quốc chỉ có 1,32 tỉ USD. Trong kim ngạch ngoại thương của Mỹ, Nhật Bản chiếm 7,7%, đứng thứ ba; Trung Quốc chỉ chiếm 1,1%, đứng thứ hai mươi hai.
Nhật Bản là đối tác thương mại số một của Mỹ ở châu Á. Khi chiến tranh nổ ra, giới tư bản Mỹ đương nhiên sẽ nghiêng về phía Nhật Bản.
Nhưng nếu thương mại Trung – Mỹ bị cắt đứt hoàn toàn, điều đó cũng không phù hợp với lợi ích của Mỹ. Đặc biệt là việc thiếu hụt dầu thông – một tài nguyên độc quyền trên thế giới – đã đụng chạm đến lợi ích của quá nhiều nhà tư bản Mỹ, nên Roosevelt phải có trách nhiệm với những nhà tư bản đó.
Bản chuyển ngữ này là tài sản trí tuệ của truyen.free, không được sao chép dưới mọi hình thức.