(Đã dịch) Không Phải Đâu Quân Tử Cũng Phòng - Chương 75: Chú Kiếm Sư
Lão thợ rèn bước ra khỏi căn nhà tranh giữa sườn núi.
Ngón út của ông lão xách một chiếc bầu rượu hun đen, trống rỗng.
Độc bước xuống núi.
Trời tờ mờ sáng.
Tháng sáu, tại bờ tây suối Hồ Điệp, không khí trước lúc bình minh vừa ẩm ướt lại se lạnh.
Lão thợ rèn gấp gọn gàng tay áo chiếc áo gai thô ráp.
Mặc tấm áo gai này, trong phòng lò rèn thì nóng bức, nhưng vừa ra khỏi phòng lò rèn lại lạnh buốt.
Ngày nào cũng vậy, vào giờ này, khi rời nhà tranh xuống núi, ông lão đều có cảm giác tương tự.
Cảm giác ấy khiến ông thấy mình như một thanh kiếm vừa được nung đỏ trong lò, rồi đột ngột ném vào dòng suối lạnh băng, kêu "cờ rắc" một tiếng, chịu sự rèn giũa của nóng và lạnh.
Lão thợ rèn thích kiểu chênh lệch nhiệt độ như vậy.
Dù ông đã rất già, thân thể còng xuống tưởng chừng sắp đổ.
Thế nhưng những người già như ông lại càng chịu được nóng lạnh.
Tựa như một khối sắt đã được tôi luyện ngàn lần.
Tuy nhiên, đây không phải là lý do khiến lão thợ rèn mỗi ngày rời khỏi lò rèn xuống núi.
Lão thợ rèn xách chiếc bầu rượu rỗng tuếch bằng ngón út, theo con đường mòn xuống núi.
Trên đường, thỉnh thoảng có người quen chào hỏi giữa buổi sáng sớm:
"Ê, lão Ngô đầu!"
Ai cũng gọi ông như thế.
Bởi vì trước kia có người tò mò hỏi tên ông, ông đều đáp "Ngô Danh", chẳng phải họ Ngô thì là họ gì?
Lâu dần, mọi người liền gọi ông là lão Ngô đầu.
Kỳ thực, cả Cổ Việt Kiếm Phô chẳng mấy ai biết lão Ngô đầu này đã ở kiếm phô bao lâu.
Thậm chí không nhiều người biết ông đang làm gì, và cũng chẳng mấy ai hứng thú với điều đó.
Nhưng những thợ rèn lão làng ở đây thì đều biết ông.
Giống như mấy ông lão đi dạo dưới lầu, bạn không biết nhà họ ở đâu, cũng chẳng rõ thân phận ra sao, nhưng cứ thấy quen mắt rồi thành quen, sau đó thì vẫn là người xa lạ mà thôi.
Lão thợ rèn trong mắt mọi người chính là như vậy.
Ông luôn luôn biến mất cả ngày lẫn đêm.
Mỗi sáng sớm, vào giờ Mão, tức khoảng hai khắc, ông lại đúng giờ từ căn lò rèn đã ngừng hoạt động nhiều năm trên núi xuống núi, tiến về phiên chợ trong kiếm phô để mua rượu.
Ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm, đều như thế.
Trong mắt mọi người, ông là một lão thợ rèn quái gở, tính tình cũng chẳng mấy tốt đẹp.
Vì sao mọi người đều nói "lão Ngô đầu" này là thợ rèn bậc thấp (tượng tác)?
Còn phải hỏi sao?
Trong Cổ Việt Kiếm Phô đều có sự phân công rõ ràng, không nuôi người rảnh rỗi. Giữa các thợ thủ công cũng có đủ loại khác biệt: thợ rèn bậc thấp (tượng tác), thợ rèn thông thường (kiếm công), thợ rèn giỏi (kiếm tượng), thợ rèn danh tiếng (danh tượng)...
Đẳng cấp vô cùng nghiêm ngặt và hà khắc, hoàn toàn dựa vào bản lĩnh cá nhân.
Để đúc kiếm cho các quý nhân ở Lạc Dương, chỉ có những người thực sự có tài mới được.
"Tượng tác" là cấp thấp nhất trong số các thợ thủ công, chỉ có thể tạo ra những tác phẩm thiếu đặc sắc, không chút linh khí.
Cổ Việt Kiếm Phô còn có một quy tắc ngầm khác.
Kiếm lô nào càng gần suối Hồ Điệp thì thợ thủ công trông coi ở đó có địa vị càng cao.
Lò rèn mà lão thợ rèn trông coi nằm tít giữa sườn núi xa xôi, lại còn ngừng hoạt động nhiều năm, rõ ràng đã bị bỏ hoang một nửa. Ông lão trông coi lò rèn trống rỗng này, không phải "tượng tác" thì là gì?
Huống hồ, trông coi lò đã nhiều năm nhưng lò rèn này quả thực chưa từng đúc ra một thanh kiếm nào.
Thế nên...
"Tượng tác" quả đúng là "tượng tác".
Lão thợ rèn tự nhủ trong lòng khi lại một lần nữa xuống núi mua rượu.
Hôm nay, trên đường, lại có người trêu chọc ông:
"Lão Ngô đầu, lại đi tìm cô bé kia mua rượu à?"
Lão thợ rèn chẳng buồn để ý, như thể không nghe thấy, cứ thế đi thẳng qua.
Ai nói chuyện, ông cũng phớt lờ.
Nếu gặp phải người cản đường dây dưa, lão thợ rèn liền nhíu mày, nhanh chóng phất tay, chẳng thèm nhìn lấy một l��n, vẻ mặt chán ghét xua đuổi.
Lão thợ rèn không muốn phát ra bất kỳ âm thanh nào.
Ông cũng mong người khác nhận ra điều này, mà tự giác đừng đến làm phiền ông.
Đây không phải vì ông câm điếc, mà là mỗi buổi sáng, tâm trạng ông lại vô cùng tồi tệ:
Lão thợ rèn đã thức trắng cả đêm.
Lịch sinh hoạt của ông hoàn toàn đảo lộn.
Ban ngày ông ngủ, ban đêm ông làm việc.
Thế nên mỗi khi bình minh đến, lão thợ rèn đều trong trạng thái rã rời sau một đêm mệt nhọc.
Trong tình trạng thức đêm như vậy.
Ông ghét mọi âm thanh tạp nham khi vạn vật hồi sinh vào buổi sáng, ghét ánh nắng chói chang mới lên, thậm chí ghét bất cứ kẻ nào tràn đầy sức sống vào buổi sáng tìm ông nói chuyện.
Lão thợ rèn chỉ muốn tự cô lập.
Ai cũng đừng mẹ kiếp làm phiền ông!
Lão thợ rèn lại đúng giờ đi vào một khu chợ sớm dưới chân núi.
Khu chợ sớm này, nói đúng hơn, không phải một phiên chợ theo đúng nghĩa đen.
Mà là nơi một số nữ công và người nhà thợ thủ công trong kiếm phô tụ họp mở các quán ăn sáng ngoài trời.
Họ làm một vài m��n ăn sáng, phục vụ lượng lớn thợ thủ công tầng lớp dưới cùng bắt đầu lao động từ sáng sớm.
Bởi vì thợ thủ công không thể tự ý ra ngoài, muốn ra ngoài cần xin phép. Mà người ngoài không thuộc Cổ Việt Kiếm Phô lại không được phép tùy tiện vào khu chợ bờ tây để mua bán.
Hơn nữa, chỉ có danh tượng, kiếm tượng và các thợ thủ công cao cấp khác được Liễu gia cung cấp ba bữa mỗi ngày. Các thợ thủ công tầng lớp dưới cùng đều được phát tiền công tự lo liệu, nhưng đồ ăn ở các nhà ăn của kiếm phô thì lại quá đắt đỏ.
Mà không ít thợ thủ công đều là đàn ông độc thân, nào có ai biết tự mình mua thức ăn nấu nướng.
Thế là, các quán ăn sáng do những nữ công siêng năng mang đồ ăn từ bên ngoài vào mỗi ngày đã thuận thế ra đời.
Liễu gia đối với việc này cũng "mắt nhắm mắt mở" cho qua.
Lão thợ rèn thấy tâm trạng mình không tệ, bởi sáng nay xuống núi, hiếm ai quấy rầy ông.
Mọi người dường như đều biết tính tình xấu của ông, phần lớn đều phớt lờ ông.
Lão thợ rèn thích cảm giác một mình yên tĩnh giữa ch��n thị thành ồn ào như vậy.
Tựa như một thanh kiếm lạnh băng cắm giữa lò lửa hừng hực.
Ông lại đến quán ăn sáng quen thuộc kia, tìm chỗ ngồi quen thuộc gần bên trong.
Vừa ngồi xuống, thậm chí còn chưa lên tiếng, đã có một cô bé mặc váy vải nhỏ, mang dấu khắc chữ "Việt" trên trán, đôi mắt to lanh lợi, buông dở công việc nữ công trong tay, nhảy khỏi ghế, chạy vội vào bếp sau ôm ra một bình rượu đã chuẩn bị sẵn, đặt lên bàn cho lão thợ rèn.
Mắt lão thợ rèn dán chặt vào mặt bàn cáu bẩn dầu mỡ, chẳng thèm nhìn cô bé váy vải bên cạnh. Ông lặng lẽ đặt chiếc bầu rượu rỗng tuếch xuống bàn, rồi từ trong ngực móc ra tám đồng tiền đồng, xếp thành một hàng.
Cô bé váy vải nhón chân lên, bàn tay nhỏ bé vươn tới mép bàn, cẩn thận từng li từng tí gom tám đồng tiền vào lòng bàn tay.
Nàng cất cẩn thận số tiền công, để lại bình rượu đầy, rồi cầm chiếc bầu rượu rỗng đi.
Không quay đầu lại nhìn ông.
Chẳng nói một lời, ánh mắt cả hai chẳng hề giao thoa.
Một già một trẻ, toàn bộ quá trình này diễn ra vô cùng ăn ý.
Mà các nữ công khác và những thực khách trong quán ăn sáng cũng chẳng hề ngạc nhiên, đối với ông lão quái gở này, họ dường như đã quá quen thuộc.
Lão thợ rèn mở niêm phong bình rượu mới, đưa mũi ghé vào hít hà.
Mùi vị quen thuộc.
Ông vui vẻ gật đầu.
Quán ăn sáng này do vài nữ công khéo léo bện kiếm tuệ cùng nhau mở. Người đứng đầu là một nữ thợ dệt tuệ tài giỏi, đứng tuổi. Còn cô bé váy vải nhỏ nhắn, có đôi mắt to linh lợi vừa nãy, là một thành viên trong đó, cũng là người trầm tĩnh nhất.
Ít lời, không làm phiền ông.
Thế nên lão thợ rèn mới chọn cô bé này để đi đến một quán rượu lâu năm ở huyện thành mua rượu.
Mỗi ngày ông trả tám văn tiền.
Năm văn tiền để mua ba lượng rượu Thiệu Hưng.
Hai văn tiền để mua một đĩa cơm gạo hấp.
Một văn tiền thưởng cho công chạy vặt của cô bé.
Ngày này qua ngày khác, đều như thế.
Trừ lần lũ lụt trước đó có một khoảng thời gian không tìm thấy cô bé, khiến ông lão rất bực bội vào buổi sáng hôm ấy.
Cô bé váy vải có tướng mạo thanh tú này đã giúp ông mang rượu Thiệu Hưng gần hai năm nay.
Đồng thời, cô bé cũng chưa từng một lần nhắc đến việc tăng tiền công chạy vặt.
Nhưng mỗi khi sáng sớm đến là ông lão thợ rèn lại trở nên cáu kỉnh một cách lạ thường, điều quan trọng nhất ông cảm thấy vẫn là... cô bé ấy nói ít và biết điều.
Cô bé chỉ lần đầu tiên giúp ông mua rượu là có chút sợ sệt mở miệng nói gì đó?
Dường như là nói cô bé tên là gì đó "Thanh"...
Quên rồi.
Lão thợ rèn chẳng hề cảm thấy hứng thú.
Thỉnh thoảng, ánh mắt ông liếc thấy cô bé váy vải bị các nữ công lớn tuổi hơn bắt nạt, cướp đi tiền bạc hoặc đồ dệt, lão thợ rèn cũng chẳng phản ứng chút nào, tiếp tục chậm rãi ăn món đồ ăn tuy gọi là bữa sáng nhưng thực chất là bữa tối. Ông đã già rồi, cần phải nhai kỹ nuốt chậm.
Lão thợ rèn cảm thấy thời gian của mình không còn nhiều, phải nhanh chóng hoàn thành việc kia rồi mới chết. Ông không rảnh quản những chuyện vặt vãnh này.
Trong quán ăn sáng, lão thợ rèn ngồi ở một góc khuất bên trong, tránh ánh nắng ban mai, nhấp một ngụm rượu Thiệu Hưng nhỏ, nheo mắt chờ đợi món ăn sáng từ bếp sau.
Lúc này khách còn ít, bao gồm cả cô bé váy vải, có vài nữ công nhàn rỗi, ngồi ở một hàng ghế bên phải, cúi đầu cẩn thận bện các loại kiếm tuệ khác nhau.
Lão thợ rèn yên lặng quan sát tài dệt khéo léo của họ.
Những kiếm tuệ này rất đẹp mắt, với đủ loại hoa văn có đường cong vô cùng thoải mái và dễ chịu trong mắt ông. Đặc biệt, có những đường cong kỳ lạ được bện ra từ ý tưởng bất chợt của những nữ công đầy linh tính, đôi khi lại gợi mở cho ông lão thợ rèn không ít ý tưởng.
Những tác phẩm nghệ thuật kiếm tuệ tinh diệu tuyệt luân, lại bắt nguồn từ đôi tay của những nữ công bé nhỏ, bình thường, hèn mọn, ngày ngày bôn ba vì kế sinh nhai này.
Nhưng điều này cũng chẳng hề kỳ lạ.
Chẳng hạn như, ai có thể nghĩ rằng, kiếm thuật tối cao trên đời này, kỳ thực lại nằm trong tay một nhóm nhỏ những nữ tu sĩ Ngô Việt ẩn cư nơi đầm lầy?
Lão thợ rèn chợt nhớ, có người từng nói với ông một câu như vậy.
Thần thoại ra đời từ chốn phàm trần.
Ông lão ngửa đầu nghiêng bầu, câu nói ấy đáng để ông nhấp thêm một ngụm rượu.
Tâm trạng lão thợ rèn không tệ.
Thế nhưng lúc này, tại bàn ăn sáng sát vách, một đám thợ rèn thông thường kéo đến. Vừa trò chuyện vừa ngồi xuống, trong đó có người quay đầu kể một câu chuyện đùa tục tĩu với bà chủ, tự nhiên gây nên một trận cười mắng náo nhiệt.
Thật ồn ào.
Lão thợ rèn đặt bầu rượu xuống, tửu hứng tiêu tan.
Mà nhóm thợ rèn ồn ào này lại chuyển sang chủ đề nóng hổi hơn, càng khiến lão thợ rèn bỗng chốc thấy tâm trạng mình tồi tệ.
Ông lão lặng lẽ thu bầu rượu, quay đầu nhìn về hướng nha huyện bờ đông suối Hồ Điệp.
Có một tân huyện lệnh trẻ tuổi mới đến, muốn xây một con kênh đào mới mang tên "Mương Gãy Cánh" ở Long Thành, nhằm cắt đứt hoàn toàn dòng nước suối Hồ Điệp.
Đoạn mất nguồn nước, làm sao có thể đúc kiếm được?
Cả đời này, ông lão thợ rèn chưa từng nghe qua một quyết định nào đi ngược lại lời tổ tiên như vậy.
Thật tình, sau cơn tức giận, ông lại chợt thấy... buồn cười.
Quái lạ thay, kẻ này là ai vậy chứ?
Bản dịch này được thực hiện bởi truyen.free, với tâm huyết gửi gắm trong từng dòng chữ.