(Đã dịch) Đại Ngụy Cung Đình - Chương 337 : Nguyên Yết Đê
Xin dâng lên chương mới hôm nay, tiện thể kêu gọi bình chọn cho Lễ Hội Fan 515 của Qidian. Mỗi người đều có 8 phiếu, bình chọn còn được tặng xu Qidian, cầu xin mọi người ủng hộ và khen ngợi!
Đối với bộ lạc Yết tộc và bộ lạc Đê tộc, Triệu Hoằng Nhuận biết rất ít. Khi chàng hỏi, tộc trưởng A Mục Đồ của bộ lạc Thanh Dương thuộc Nguyên tộc liền giải thích cặn kẽ cho Triệu Hoằng Nhuận.
Cũng giống như nhiều quốc gia Trung Nguyên, bao gồm cả Ngụy quốc, Nguyên tộc vô cùng sùng kính văn hóa và lịch sử của dân tộc mình, đồng thời luôn háo hức kể cho khách lạ nghe về lịch sử lâu đời của bộ tộc.
Theo lời A Mục Đồ kể, Nguyên tộc có nguồn gốc từ thảo nguyên phương Bắc. Nếu vùng đất phía Bắc trong ấn tượng của người Ngụy đã là cực Bắc, thì người Nguyên tộc đã từng sinh sống trên một vùng thảo nguyên còn xa xôi hơn cả vùng cực Bắc ấy, nơi có khí hậu lạnh giá và chênh lệch nhiệt độ ngày đêm rất lớn.
Vì vùng thảo nguyên ấy có khí hậu khắc nghiệt, người Nguyên tộc đã trải qua những tháng ngày vô cùng gian khổ ở đó.
Cũng chẳng biết từ bao nhiêu năm trước, giống như việc người Ngụy họ Triệu di cư từ Lũng Tây về phía Đông, người Nguyên tộc sống trên thảo nguyên lạnh giá cũng vì cuộc sống bức bách mà di cư về phía Nam, nơi có khí hậu ấm áp hơn. Vùng đất họ chọn khi đó chính là nơi mà người Ngụy gọi là Bắc thổ địa (vùng đất phía Bắc).
Tại vùng đất phía Bắc đó, người Nguyên tộc đã hòa nhập và thông hôn với các dân tộc du mục địa phương, dần dần sinh sôi ra rất nhiều thị tộc. Những thị tộc này đã từng trở thành mối họa lớn trong lòng Hàn quốc ở phương Bắc.
Các thị tộc này được gọi chung là Hồ.
Chú thích: Người Hồ chấp nhận danh xưng "Hồ" này, cho rằng đó là một loại tôn xưng, tôi nghi ngờ thực chất là "Cổ Nguyệt Thị". Điều này khác với việc Ngụy quốc gọi Âm Nhung là "Nhung".
Vào thời điểm đó, vùng đất phía Bắc vô cùng hỗn loạn. Người Nguyên tộc và người Hồ đã nổ ra rất nhiều cuộc chiến tranh vì tranh giành những đoạn đường có nguồn nước và bãi chăn thả phong phú. Mức độ ác liệt của chiến tranh không hề kém cạnh Trung Nguyên.
Thế nhưng, vào thời điểm đó, người Nguyên tộc cổ xưa lại yếu thế trong cuộc chiến với người Hồ. Do đó, họ đã tập hợp những chiến binh cường tráng nhất trong mỗi bộ lạc Nguyên tộc, do dũng sĩ dũng cảm nhất trong số họ dẫn dắt. Họ giao chiến với người Hồ và cuối cùng giành được thắng lợi.
Và nhánh bộ lạc đặc biệt này, chuyên dùng để gây chiến với ngoại tộc, dần dần phát triển thành người Yết tộc ngày nay.
Không giống với người Nguyên tộc ôn hòa, người Yết tộc có tính cách hiếu chiến. Mỗi nam tử trong bộ lạc đều là chiến sĩ xuất sắc. Trước đây, khi Lục vương thúc Triệu Nguyên Dục nhắc nhở Triệu Hoằng Nhuận đừng coi thường Âm Nhung, tộc người toàn dân đều là binh sĩ mà ông nhắc đến chính là Yết tộc nhân.
Mấy trăm năm sau đó, Yết tộc và Nguyên tộc đã dần dần trở thành hai bộ tộc khác biệt, thế nhưng họ rất ít khi giao chiến lẫn nhau. Dù sao, mối quan hệ giữa họ giống như là Triệu thị của Ngụy quốc và Ngụy thị ở Lũng Tây, vì vậy họ sống chung khá hòa hợp.
Có thể xem Yết tộc nhân thực chất là một nhánh hiếu chiến và tàn bạo của Nguyên tộc. Văn hóa và lịch sử của họ hầu như tương đồng.
Nhưng Đê tộc thì khác.
Chữ "Đê" này, trong văn hóa của người Nguyên tộc, đại diện cho con dê có địa vị thấp nhất trong bầy. Và Đê tộc, trong mắt người Nguyên tộc cũng có ý nghĩa tương tự.
Là một người Nguyên tộc, A Mục Đồ, khi nhắc đến Đê tộc, thỉnh thoảng lại lộ ra vẻ khinh bỉ. Điều này không phải là không có nguyên nhân.
Vào thời điểm đó, trong cuộc chiến tranh giữa Nguyên tộc và Yết tộc chống lại người Hồ, họ đã bắt rất nhiều nô lệ. Hai tộc Nguyên và Yết đã dùng sắt nung đỏ, đóng dấu nô lệ lên người những tù binh này, để họ thay thế nam giới trong bộ lạc đi chăn thả đàn dê.
Đặc biệt là người Yết tộc, những người chăn nuôi trong lãnh địa của họ khi đó đều là nô lệ của Yết tộc.
Cứ như thế, rất nhiều năm trôi qua. Những nô lệ ôm lòng oán hận ấy đã tập hợp lại, giết chết một nhánh bộ lạc Yết tộc là chủ nhân của họ, và chiếm lấy địa bàn của chủ nhân.
Những người này đã kiên cường sống sót dưới sự trả thù điên cuồng của người Yết tộc. Và dần dần sinh sôi thành bộ lạc Đê tộc ngày nay.
Đương nhiên, chữ "Đê" chỉ là tên gọi miệt thị mà Nguyên tộc và Yết tộc dành cho bộ lạc từng là nô lệ của họ. Người Đê tộc thì không thừa nhận, họ đã loại bỏ ý nghĩa con dê mà Nguyên tộc và Yết tộc gán cho chữ "Đê", và tự xưng là Để tộc.
Đây chính là mối quan hệ giữa ba tộc Nguyên, Yết, Đê (Để) và người Hồ. Tuy rằng chỉ cần vài câu đơn giản cũng có thể khái quát, nhưng nó đại diện cho lịch sử hàng trăm năm chinh phạt lẫn nhau của các dân tộc trên thảo nguyên phía Bắc.
Giờ đây, theo sự lớn mạnh dần của thế lực Đê (Để) tộc và các bộ lạc nhánh của họ, người Nguyên tộc và Yết tộc đã dần chấp nhận địa vị của Đê (Để) tộc. Chỉ có điều, trong thâm tâm, họ vẫn giữ thái độ khinh bỉ đối với Đê (Để) tộc, sau lưng thì mắng họ là lũ con hoang huyết thống không thuần.
Đê (Để) tộc cũng rõ ràng điều này, cho nên mối quan hệ giữa họ và người Hồ tốt hơn.
Tiện thể nhắc thêm một điều, tổ tiên người Hồ, thực chất cũng là người của Sạ tộc (chữ có bộ "ngư" bên dưới, trên là ""), có lịch sử cổ xưa không kém gì Nguyên tộc nhân. Điểm khác biệt so với Nguyên tộc nhân là, tổ tiên người Hồ, tức người Sạ tộc, vừa biết chăn thả đàn dê lại vừa biết đánh bắt cá ở ven hồ. Vì thế, khác biệt lớn nhất giữa người Hồ và người Nguyên tộc chính là, trong thực đơn của họ có cả canh cá và các món từ cá. Chú thích: Danh xưng Sạ tộc này quá lạ, hơn nữa không tìm thấy chữ tượng hình chính xác. Vậy cứ thống nhất gọi là người Hồ, chư vị chỉ cần biết qua là được. Đoạn này là tôi đã tra cứu lịch sử có thật, nhưng có chính xác hay không thì tôi không đảm bảo.
Nguyên tộc, Yết tộc, Đê (Để) tộc, cùng với người Hồ, chính là bốn bộ tộc lớn nhất ở biên giới phía Bắc của Ngụy quốc và Hàn quốc. Đồng thời cũng là những ngoại tộc bị các quốc gia Trung Nguyên coi là đối địch.
Và chủ nhà khoản đãi Triệu Hoằng Nhuận cùng Lục vương thúc của chàng hôm nay chính là một nhánh của Nguyên tộc, gọi là bộ lạc Thanh Dương.
Thanh Dương không phải là họ, mà là tên gọi của bộ lạc, có ý nghĩa tương đương với quốc hiệu của các quốc gia Trung Nguyên như Ngụy, Tề, Hàn.
Trên thực tế, hầu hết người Nguyên tộc và Yết tộc đều mang họ Duẫn (nghi ngờ đây là âm của một chữ cổ), bao gồm cả dân tộc Khương ở Lũng Tây. Có thể điều này là do các bộ tộc này đều di cư từ thảo nguyên phương Bắc xa xôi về phía Nam, hoặc có lẽ ở thời cổ đại xa xưa hơn, họ từng là cùng một chủng tộc.
Dựa theo lời giải thích của A Mục Đồ, Triệu Hoằng Nhuận dần dần hiểu ra, mặc dù đã trải qua mấy trăm năm, người Nguyên tộc vẫn duy trì lối sống cổ xưa của họ, sống một cuộc đời dường như không tranh giành với thế sự.
Thực tế, Triệu Hoằng Nhuận cũng có thể nhận thấy điều này. Người Nguyên tộc không hề có thành kiến với người Ngụy, họ nhiệt tình và hiếu khách, đồng thời dành cho người Ngụy, những chủ nhân từng sở hữu vùng Ba Xuyên này, sự tôn trọng đầy đủ.
Đương nhiên, tiền đề là Ngụy quốc không nên cố gắng giành lại vùng Ba Xuyên, mảnh đất từng là lãnh thổ của mình. Nếu không, một khi mất đi nơi sinh tồn, tin rằng ngay cả người Nguyên tộc ôn hòa cũng sẽ cầm vũ khí lên để tiến hành cuộc chiến đấu sinh tử.
Điều này có thể được chứng minh từ sự ra đời của Yết tộc nhân trước đây.
So với người Nguyên tộc có tính cách ôn hòa, thái độ của người Yết tộc đối với Ngụy quốc lại không thân mật đến vậy.
Người Yết tộc có tính cách hiếu chiến. Theo lời Lục vương thúc Triệu Nguyên Dục kể, họ là một bộ tộc ngông cuồng và tự đại, họ coi vùng Ba Xuyên là địa bàn của riêng mình, không cho phép người ngoại tộc đặt chân đến đây.
Chẳng hạn như trong lần giao thiệp này, nghe nói đại bộ lạc Yết tộc chỉ có một nhánh tham gia, còn lại đều là các bộ lạc Nguyên tộc.
Thực tế, việc Ngụy quốc xây dựng Thành Cao Quan ở Thành Cao chính là để phòng bị đám người Yết tộc này.
Xem ra, những kẻ từng quấy nhiễu biên cảnh phía Tây Bắc của Đại Ngụy trước đây chính là đám Yết tộc nhân đó.
Trong lòng Triệu Hoằng Nhuận đã có tính toán.
Công bằng mà nói, chàng không giống như Đại tướng quân Tư Mã An của trại Nãng Sơn, cứng nhắc thù ghét mọi bộ tộc không phải người Ngụy. Chàng không cho rằng kẻ nào khác ý đều là bất thường, chàng không có ý định tiêu diệt hết thảy các bộ tộc không phải người Ngụy trên đời này.
Theo Triệu Hoằng Nhuận, ngay cả trong các ngoại tộc, cũng có thể kết giao thân tình, ví dụ như những người Nguyên tộc nhiệt tình.
Không thể phủ nhận rằng, thái độ của Triệu Hoằng Nhuận đối với ngoại tộc tùy thuộc vào thái độ của các ngoại tộc đó đối với Ngụy quốc. Ví dụ như đối v���i Yết tộc nhân, những kẻ đã gây ra đủ loại xung đột và thỉnh thoảng quấy nhiễu biên cảnh Ngụy quốc, chàng cảm thấy cần thiết phải cho những người này một bài học sâu sắc.
Mãi cho đến đêm khuya tĩnh mịch, A Mục Đồ dẫn Triệu Nguyên Dục và Triệu Hoằng Nhuận đến một căn lều nhỏ.
Có thể thấy, chiếc lều này được bố trí rất dụng tâm. Bên trong lều trải thảm da dê mềm mại.
Thực ra, người của bộ lạc Thanh Dương tổng cộng đã chuẩn bị hai lều lớn và hai lều nhỏ, tổng cộng bốn chiếc lều cho hai chú cháu Triệu Nguyên Dục và Triệu Hoằng Nhuận. Vấn đề là ở chỗ, họ không hề rõ thân phận của ba cô gái Ngọc Lung công chúa, Mị Khương và Mị Nhuế. Họ đã coi ba cô gái nữ giả nam trang này cùng với Thẩm Úc và những người khác đều là hộ vệ.
Thế nên, Triệu Hoằng Nhuận đành phải nhường chiếc lều của mình cho ba cô gái Ngọc Lung công chúa, Mị Khương và Mị Nhuế, và đành phải chen chúc cùng Lục vương thúc Triệu Nguyên Dục trong một chiếc lều.
"Lục thúc, tối nay con ngủ chung với thúc vậy."
Đánh giá chiếc lều nhỏ vẫn khá rộng rãi, Triệu Hoằng Nhuận nói.
Nào ngờ, Triệu Nguyên Dục nghe vậy liền phản ứng rất dữ dội, kéo Triệu Hoằng Nhuận đang chuẩn bị chui vào lều ra ngoài.
"Hả? Cháu muốn ngủ chung với ta sao?" Chỉ thấy Triệu Nguyên Dục lộ ra vẻ mặt không muốn, kiên quyết từ chối: "Không được!"
"Vậy con ngủ ở đâu?" Triệu Hoằng Nhuận lộ vẻ khó tin. Chàng thật không ngờ vị Lục thúc này lại từ chối chàng tá túc.
"Cháu sao?" Triệu Nguyên Dục đánh giá Triệu Hoằng Nhuận mấy lần từ trên xuống dưới, đột nhiên đưa tay nắm lấy mặt chàng, xoay mặt chàng sang một bên khác, trong miệng cười gian nói: "Đi đằng đó kìa!"
Triệu Hoằng Nhuận ngạc nhiên nhận ra, cô gái trẻ Nguyên tộc vừa gặp trong buổi tiệc, đang đứng trước một chiếc lều nhỏ khác, trừng mắt nhìn về phía bên này.
Khi ánh mắt Triệu Hoằng Nhuận chạm vào nàng, nàng mới bật cười khúc khích, rồi quay người chui vào chiếc lều nhỏ của mình.
Dường như đang nói cho Triệu Hoằng Nhuận biết, đó là chiếc lều nàng sẽ ngủ tối nay.
Thế này cũng... quá nhiệt tình rồi chứ?
Triệu Hoằng Nhuận cảm thấy hơi hoảng sợ, liền vội vàng gạt tay Lục vương thúc ra, chui vào chiếc lều nhỏ phía sau: "Tạm biệt, con vẫn là ngủ chung với Lục thúc vậy."
"Thằng nhóc nhà ngươi ngốc à?" Triệu Nguyên Dục đi theo vào, vẻ mặt tức giận nói: "Mỹ nhân mời mà không chịu đi, cứ nhất định phải ngủ chung với Lục thúc sao?"
Lúc này, Triệu Hoằng Nhuận đã chui tọt vào trong tấm thảm da dê, giả câm giả điếc, vờ như không nghe thấy gì.
Thấy vậy, Triệu Nguyên Dục tức giận cười, khà khà cười quái dị nói: "Được thôi, vậy cháu đừng hối hận đấy."
Đừng hối hận? Có ý gì chứ?
Triệu Hoằng Nhuận trong lòng có chút hoang mang.
Mãi cho đến một lúc lâu sau, Triệu Hoằng Nhuận bỗng nhiên cảm thấy có ai đó chui vào lều.
Ngay khi Triệu Hoằng Nhuận theo bản năng định rút con dao găm phòng thân từ trong ống tay áo ra, liền nghe thấy Triệu Nguyên Dục khẽ nói: "Đến đây, cháu ta đang ngủ bên kia."
"Ồ?" Trong lều, vang lên một tiếng nói của phụ nữ.
Không thể nào?
Triệu Hoằng Nhuận trợn to hai mắt.
Cùng lúc đó, trong lều vang lên một loạt tiếng sột soạt. Chợt, những âm thanh đó dần dần bị tiếng thở dốc của Lục vương thúc Triệu Nguy��n Dục và người phụ nữ kia thay thế.
Mãi đến lúc này, Triệu Hoằng Nhuận mới bừng tỉnh, câu nói "cháu đừng hối hận đấy" của Lục vương thúc Triệu Nguyên Dục rốt cuộc có ý gì.
Khốn nạn! Có trưởng bối nào lại làm thế này chứ?!
Chẳng còn bận tâm giả vờ ngủ nữa, Triệu Hoằng Nhuận vội vàng lao ra khỏi lều.
Bản dịch của chương truyện này được sở hữu độc quyền bởi truyen.free.