Menu
Đăng ký
Truyện
← Trước Sau →
Truyen.Free

(Đã dịch) Dân Quốc Chi Văn Hào Quật Khởi - Chương 537 : ( Russell bá tước )

Làm sao Chu Hách Huyên có thể ngay lập tức nghĩ ra những tình tiết chính của tiểu thuyết nhanh đến vậy?

Rất đơn giản, vì có quá nhiều tác phẩm để tham khảo.

Chẳng hạn, về tổng thể cấu trúc sáng tạo, anh mang hơi hướng mô phỏng theo “Trăm Năm Cô Đơn” và “Bạch Lộc Nguyên”. Phần mở đầu cốt truyện, anh lấy cảm hứng từ bộ phim truyền hình “Vượt Quan Đông”. Đối với những đoạn văn tả về mã phỉ lục lâm (cướp cạn) ở Đông Bắc, anh dự định tham khảo lối viết của Diêu Tuyết Ngân trong “Đêm Trường”. Ngoài ra, anh còn chuẩn bị lồng ghép nhiều đặc trưng từ các tác phẩm kinh điển khác.

Tất nhiên, đây chỉ là sự tham khảo, tuyệt đối không phải sao chép.

Ví dụ như “Thảo Nguyên Horqin” của Đoan Mộc Hống Lương, có nhiều chi tiết mô phỏng theo “Hồng Lâu Mộng”. Nhưng nội dung hai cuốn sách này hoàn toàn khác nhau, dù có soi mói đến mấy cũng chỉ có thể nói Đoan Mộc Hống Lương đã bày tỏ sự kính trọng đối với “Hồng Lâu Mộng”.

Tương tự, cuốn “Kinh Hoa Yên Vân” của Lâm Ngữ Đường sau này cũng là một bản phỏng theo cao cấp của “Hồng Lâu Mộng” thời Dân quốc.

Bạn có thể nói “Kinh Hoa Yên Vân” là sao chép không?

Không thể.

Chủ đề “Vượt Quan Đông” mà Chu Hách Huyên định viết, so với bộ phim truyền hình “Vượt Quan Đông”, thì tuy đều nói về người dân Sơn Đông di cư, đều có tình tiết đào vàng, nhưng ngoài ra không có bất kỳ nội dung trùng khớp nào khác.

Còn với “Đêm Trường” của Diêu Tuyết Ngân, Chu Hách Huyên chỉ học hỏi cách thể hiện và góc nhìn. Ngay cả khi so sánh từng câu chữ, cũng hoàn toàn không thấy điểm tương đồng nào.

Thêm nữa là “Bạch Lộc Nguyên”, bộ tiểu thuyết này Chu Hách Huyên vô cùng yêu thích, anh đã trực tiếp mô phỏng theo cấu trúc sáng tạo tổng thể, thậm chí còn tham khảo một số đoạn cao trào trong đó.

Nói là làm!

Chu Hách Huyên dành trọn một tháng ở nhà, tham vấn Đoan Mộc Hống Lương cùng thư ký, sĩ quan phụ tá của Trương Học Lương, ghi chép lại mọi điều họ kể về phong thổ vùng Quan Đông. Tiếp đó, anh lại đến Bắc Bình, tìm sinh viên các trường Đại học Đông Bắc, Đại học Phùng Dung để trò chuyện, rồi lại tìm gặp những người Đông Bắc đang lưu vong, nghe họ kể đủ chuyện. Chỉ riêng những câu chuyện, phong tục, truyền thuyết về Đông Bắc đã ghi chép lại hơn 20 vạn chữ.

Chu Hách Huyên còn đặc biệt học tiếng Sơn Đông và thổ ngữ vùng Đông Bắc, để thêm vào nhiều thổ ngữ đặc trưng của vùng, giúp tác phẩm gần gũi hơn với đời sống người dân Đông Bắc.

Chỉ riêng công tác chuẩn bị tiền kỳ cho tiểu thuyết, Chu Hách Huyên đã tiêu tốn ba tháng.

Trương Học Lương biết Chu Hách Huyên muốn viết một tác phẩm lớn về Đông Bắc nên đã chủ động đề nghị giúp đỡ. Trước khi rời Thiên Tân, ông đã tìm cho Chu Hách Huyên rất nhiều tài liệu liên quan đến Đông Bắc, như bản đồ quân sự, bản đồ phân bố khoáng sản, huyện chí địa phương, giá cả hàng hóa các năm, niên biểu thiên tai, v.v.

Mãi đến giữa tháng sáu, Chu Hách Huyên mới chính thức bắt đầu viết, tên tạm thời của tiểu thuyết là “Hắc Thổ”.

Trước đó, những độc giả Anh quốc có lẽ là người buồn bực nhất – sau khi “Anh Hùng Galactic” đăng hết các chương bản thảo đã có, liên tục ngừng chương đến bốn tuần, cứ như thể tác giả sắp “thái giám” (ngừng viết) vậy.

Thật đáng ghét!

. . .

Phòng thí nghiệm “Aldrich – Corey” thuộc Đại học London.

Aldrich chăm chú lật xem số liệu thí nghiệm, thở dài: “Haizz, lại thất bại nữa rồi!”

“Chúng ta sẽ thành công thôi,” Jean Corey tự tin nói.

“Chỉ mong sớm thành công đi,” Aldrich bất đắc dĩ đáp.

Sau khi phát hiện thành công Aminobenzenesulfonamit, Aldrich vẫn luôn nghiên cứu phát triển các loại thuốc Sulfonamide mới. Thế nhưng thật đáng tiếc, nửa năm trôi qua, họ chỉ trải qua những thất bại nối tiếp thất bại.

Ngay lúc này, một sinh viên đột nhiên xông vào nói: “Thưa Giáo sư, có một người Đức tên là Domagk muốn gặp thầy ạ.”

“Domagk ư?” Aldrich vui mừng nói, “Mau mời ông ấy vào!”

Gerhard Domagk, nhà sinh vật học người Đức, là người đầu tiên trong lịch sử phát hiện tác dụng kháng khuẩn của Prontosil, và nhờ đó đã giành giải Nobel Y học.

Thời điểm này, giới khoa học và văn học đều rất hứng thú với việc trao đổi thư từ, Domagk và Aldrich đã trao đổi thư từ liên tục hai tháng, thảo luận về tiến độ nghiên cứu các loại thuốc Sulfonamide.

Một thời gian trước, Aldrich đã chính thức gửi lời mời Domagk, hy vọng ông có thể gia nhập phòng thí nghiệm của mình.

Domagk không suy nghĩ nhiều mà đã đồng ý, bởi vì nước Đức đang náo loạn vì phát xít, đầu năm, Berlin thậm chí đã bùng nổ cuộc biểu tình phản đối phát xít với mười vạn người tham gia. Tiếp đó, vụ cháy Tòa nhà Quốc hội càng khiến không ít người Đức hoảng sợ, bản thân ông cũng không muốn tiếp tục ở lại nước Đức.

“Xin chào, thưa ông Domagk!” Aldrich nhiệt tình chào đón.

“Xin chào,” Domagk mang theo một chiếc vali lớn bước vào, cười nói: “Đây là món quà tôi mang đến, tất cả tài liệu thí nghiệm liên quan đến Sulfonamide.”

“Tuyệt vời quá!” Aldrich hưng phấn đến hai mắt sáng bừng.

Có Domagk gia nhập, cùng với những tài liệu thí nghiệm ông mang đến, tin rằng tốc độ nghiên cứu và phát triển loại thuốc mới Sulfonamide sẽ nhanh hơn rất nhiều.

So với niềm vui của mấy nhà khoa học này, Orne, cha của Vivien Leigh, lại rõ ràng phiền muộn hơn nhiều.

Aminobenzenesulfonamit sẽ chính thức được đưa vào sản xuất vào đầu tháng 2 năm nay, đến nay đã được một tháng. Là một loại kháng sinh mạnh mẽ mới phát triển, Sulfonamide gặp phải một vấn đề vô cùng nan giải, đó là khó có thể được phổ biến rộng rãi.

Mặc dù luận văn của Aldrich đã gây xôn xao trong một phạm vi nhỏ trong giới y học, nhưng hiện nay chỉ có rất ít bác sĩ Anh quốc sẵn lòng cho bệnh nhân thử nghiệm loại thuốc mới này. Tức là, Aminobenzenesulfonamit tạm thời vẫn chỉ dừng lại ở giai đoạn thử nghiệm lâm sàng.

Nhân tiện nói thêm, vào thời điểm này, việc quản lý dược phẩm của các chính phủ cũng không hề nghiêm ngặt, những thứ như morphin thậm chí còn được nhiều bác sĩ coi là th��n dược.

Ví dụ vào năm 1937, có một dược sĩ người Mỹ đã chế ra Elixir Sulfanilamide, nhưng đến tác dụng phụ còn chưa làm rõ đã dám cung cấp rộng rãi cho bệnh nhân sử dụng. Kết quả gây ra suy thận cấp cho hơn 300 người, trong đó 107 người tử vong, điều này đã trực tiếp dẫn đến việc Mỹ phải sửa đổi Đạo luật Thực phẩm, Dược phẩm và Mỹ phẩm Liên bang – một trong những quy định quan trọng là thuốc bắt buộc phải ghi rõ tác dụng phụ.

Hiện tại, xưởng dược của Orne cũng vậy, cứ thế sản xuất loại thuốc mới Aminobenzenesulfonamit ra là muốn bán khắp nơi. Còn về tác dụng phụ của thuốc hay các phản ứng dị ứng, chẳng ai quan tâm, cứ để đến khi có chuyện rồi tính.

. . .

Bệnh viện Thompson, London.

“Khặc khặc khặc khặc...”

Portland Russell cứ ho điên cuồng không ngớt, như muốn ho cả lá phổi ra ngoài.

Bác sĩ với vẻ mặt nghiêm túc nói: “Thưa Bá tước Russell, bệnh viêm phổi của ngài ngày càng nghiêm trọng, tốt nhất đừng thức khuya hút thuốc nữa.”

“Tôi sẽ cố, khặc khặc khặc,” Russell khó chịu nói, “Xin kê cho tôi loại thuốc mạnh nhất, thực sự tôi không muốn cứ ho khù khụ như một bệnh nhân lao nữa.”

Bác sĩ suy nghĩ một chút rồi nói: “Gần đây có một loại thuốc mới tên là Aminobenzenesulfonamit, có hiệu quả điều trị rất tốt đối với bệnh viêm phổi, tôi đã thử nghiệm trên vài bệnh nhân rồi. Ngài có muốn dùng thử một ít không?”

“Thuốc mới ư,” Russell do dự một lát, cuối cùng vẫn đồng ý: “Vậy thì cứ dùng một ít xem sao.”

Đây là điểm khó khăn nhất trong việc phổ biến thuốc ở giai đoạn hiện tại, vì không có sự đảm bảo an toàn, nhiều bệnh nhân từ chối sử dụng thuốc mới.

Russell nào có sợ chết, hơn 10 năm trước ông từng mắc bệnh sốt rét nghiêm trọng ở Trung Quốc, đến nỗi người Nhật đồn rằng ông đã qua đời, vậy mà giờ đây ông vẫn còn khỏe mạnh và hoạt bát như thường.

Về đến nhà, sau khi uống viên Sulfonamide, Russell lập tức bắt tay vào sáng tác. Mặc dù ông nội ông đã hai lần nhậm chức Thủ tướng, cha ông từng là nghị viên quốc hội, bản thân ông cũng có tước vị bá tước, nhưng thật đáng tiếc cha mẹ mất sớm, gia cảnh sa sút, cuộc sống của Russell hiện tại khá chật vật, ông phải dựa vào tiền nhuận bút để trợ cấp cho gia đình – ông phải nuôi cả hai gia đình: vợ cũ và vợ hiện tại, đồng thời còn phải chi tiền duy trì ngôi trường thử nghiệm do chính mình thành lập.

Khi bản thảo đã hoàn thành, ba tiếng đã trôi qua, Russell đột nhiên kinh ngạc nhận ra mình không còn ho nữa!

Giống như khi penicillin mới ra đời, các loại thuốc Sulfonamide vào đầu thập niên 30 có thể được coi là thần dược “bách bệnh tiêu trừ”, hơn nữa hiệu quả cực nhanh vì chưa xuất hiện hiện tượng kháng thuốc kỳ lạ nào.

Sáng hôm sau, Russell liền đến bệnh viện tái khám, kết quả bác sĩ thông báo bệnh viêm phổi của ông đã khỏi hoàn toàn.

Russell vô cùng kinh ngạc và vui sướng, sau khi hỏi thăm bác sĩ, ông mới biết Aminobenzenesulfonamit là do phù thủy phương Đông đại danh đỉnh đỉnh phát hiện, và năm ngoái còn đăng bài luận văn đồng ký tên trên tạp chí “The Lancet”.

Russell vô cùng yêu thích văn hóa Trung Quốc, từng giảng dạy tại Đại học Đông Nam (Đại học Trung ương), những năm gần đây ông cũng viết không ít bài báo liên quan đến Trung Quốc. Trong niềm vui sướng, ông đã tiện thể ca ngợi mạnh mẽ loại thuốc mới tên là “Aminobenzenesulfonamit” trong bài viết vừa hoàn thành, công bố rằng loại thuốc này chỉ mất ba tiếng đã chữa khỏi bệnh viêm phổi của mình.

Bài viết này sau khi được xuất bản, vốn không gây được tiếng vang quá lớn, nhưng lại được Orne, cha của Vivien Leigh, phát hiện.

Orne nhận ra cơ hội tuyên truyền Sulfonamide đã đến, vội vã chi một khoản tiền lớn, tìm hơn mười tờ báo để thực hiện đưa tin quy mô lớn về việc này.

Russell là ai?

Cháu trai của cựu Thủ tướng Anh, bá tước, quý tộc, nhà triết học, nhà toán học, nhà logic học, nhà sử học, nhà văn và nhà hoạt động xã hội nổi tiếng. Một chuỗi dài những danh hiệu này khi được liệt kê ra, quả thực rất ấn tượng và mang lại hiệu quả tuyên truyền đáng hài lòng.

Truyen.free xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến quý độc giả đã dành thời gian thưởng thức tác phẩm này.

Trước Sau

Cài đặt đọc truyện

Màu nền:
Cỡ chữ:
Giãn dòng:
Font chữ:
Ẩn header khi đọc
Vuốt chuyển chương

Danh sách chương

Truyen.Free