(Đã dịch) Dân Quốc Chi Văn Hào Quật Khởi - Chương 850 : ( đáng yêu nước Mỹ nhân dân )
Ngay từ khi Roosevelt nhậm chức, ông đã vạch ra một đường lối ngoại giao rõ ràng với Viễn Đông và kiên định thực hiện trong suốt mười năm tiếp theo. Đường lối đó được gọi là: Viện trợ Trung Quốc, kiềm chế Nhật Bản!
Nhật Bản đúng là đối tác thương mại lớn nhất của Mỹ ở châu Á, nhưng cũng là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Mỹ trong khu vực này. Vì thế, với Roosevelt, vừa phải kiếm tiền từ Nhật Bản, vừa phải giúp đỡ người Trung Quốc khi họ gặp khó khăn; không thể đối đầu trực diện với Nhật Bản, nhưng cũng không thể để Nhật Bản lộng hành, càng không thể để Trung Quốc hoàn toàn sụp đổ.
Một số sử gia đã khái quát quá trình Mỹ viện trợ Trung Quốc như sau: Viện trợ vì đạo nghĩa (1931 – 1937), viện trợ mang tính biểu tượng (1937 – 1941) và viện trợ thực chất (1941 – 1945).
Tuy nhiên, về thời điểm Mỹ bắt đầu viện trợ thực chất cho Trung Quốc, giới sử học cũng có ba quan điểm khác nhau.
Một số cho rằng bắt đầu từ khoản vay Dầu Tùng cuối năm 1938; một số khác lấy dấu mốc là sự bùng nổ chiến tranh ở châu Âu năm 1939; và một số khác nữa lại xác định thời điểm đó là năm 1940 (khi Đức, Ý, Nhật chính thức ký kết hiệp ước đồng minh).
Đặc biệt là sau khi Liên Xô tiến hành viện trợ cho vay đối với Trung Quốc, Roosevelt cảm thấy áp lực ngoại giao lớn. Ông e ngại việc tiếp tục chần chừ viện trợ sẽ đẩy Tưởng Giới Thạch vào vòng tay Liên Xô, và đây cũng là một trong những lý do khiến khoản vay Dầu Tùng được ký kết.
Nhưng bất kể chính phủ Mỹ bắt đầu viện trợ thực chất cho Trung Quốc từ khi nào, trong dân gian Mỹ, các hoạt động viện trợ Trung Quốc đã diễn ra ngay sau khi cuộc chiến Tùng Hộ kết thúc.
Lực lượng chủ yếu trong các hoạt động viện trợ Trung Quốc của người dân Mỹ đến từ hai nguồn: giới giáo dục và giới giáo hội.
Nói về giới giáo dục, nhiều trí thức Mỹ cũng có tinh thần trọng nghĩa, chẳng hạn như Einstein, người đã nhập quốc tịch Mỹ, là người tiên phong trong giới khoa học phát động phong trào viện trợ Trung Quốc.
Một số khác thì lại thuộc những người sáng suốt, nhận rõ bản chất của tình thế, như các học giả lịch sử Whitney Griswold và William Johnston, cùng với chuyên gia Trung Quốc Freda Utley, đã kịch liệt chỉ trích giới thương nhân Mỹ giao thương với Nhật Bản, cho rằng điều này chẳng khác nào viện trợ cho kẻ thù tiềm ẩn của Mỹ ở châu Á.
Còn Thomas Bisson thì chỉ rõ: "Cuộc xâm lược của Nhật Bản đang trực tiếp đe dọa lợi ích của Mỹ ở Trung Quốc, vậy mà các thương nhân Mỹ lại đang tiếp tay cho Nhật Bản xây dựng đế quốc của chúng."
Giới học thuật tuy có sức ảnh hưởng lớn, nhưng khả năng thực thi lại hạn chế; họ cùng lắm cũng chỉ kêu gọi quyên góp và viết bài chỉ trích mà thôi. Trong khi đó, sức mạnh của giới giáo hội Mỹ thì lớn hơn rất nhiều.
Thông tin về cuộc chiến tranh Trung – Nhật ban đầu đến với người dân Mỹ không phải từ các phóng viên, mà chủ yếu là từ các nhà truyền giáo.
Bởi vì vào những năm 1930, hầu hết các phóng viên Mỹ được cử đến châu Á đều là những người trẻ tuổi khó kiếm sống ở trong nước. Họ thiếu kinh nghiệm nghiệp vụ, khó phân biệt thật giả nhiều sự việc; hơn nữa, phần lớn những phóng viên này lại thường trú ở Nhật Bản. Khi chiến tranh Trung – Nhật bùng nổ, số ít phóng viên còn lại ở Trung Quốc cũng rời đi, khiến tin tức truyền về Mỹ càng ít ỏi hơn. Thậm chí, một số phóng viên trẻ còn bị Nhật Bản lung lạc hoặc mua chuộc, ngang nhiên viết bài bênh vực phía Nhật.
Trái ngược với các phóng viên thường trú ở Trung Quốc, số lượng nhà truyền giáo Mỹ tại đây lại vô cùng đông đảo. Thời bấy giờ, hầu như mọi khu dân cư ở Mỹ đều có một nhà thờ, và mỗi nhà thờ lại tài trợ một hoặc vài nhà truyền giáo làm việc ở nước ngoài; phần lớn những nhà truyền giáo này đều được cử đến Trung Quốc.
Các nhà truyền giáo ở Trung Quốc hàng năm đều gửi một lượng lớn thư tín về các nhà thờ tài trợ họ, nhờ đó, càng nhiều người dân Mỹ được biết về tình hình Trung Quốc.
Thông tin về vụ Thảm sát Nam Kinh chính là do các nhà truyền giáo truyền về Mỹ. Họ không chỉ viết thư cho nhà thờ, mà còn viết cho gia đình và bạn bè, kể lại tỉ mỉ mọi điều mình đã trải qua.
Trong tình huống bình thường, những bản tin về sự tàn bạo của chiến tranh sẽ bị coi là tuyên truyền thù địch có chủ đích. Tuy nhiên, xét đến vai trò và vị thế đặc biệt của các nhà truyền giáo, những tin tức do họ truyền bá lại được xem là sự thật.
Thế là, khi các nhà truyền giáo trở về Mỹ, những câu chuyện về sự tàn bạo của quân Nhật ở Trung Quốc đã lập tức được truyền miệng rộng rãi từ khu dân cư này sang khu dân cư khác. Các hội thánh Mỹ cũng đứng lên, kịch liệt chỉ trích hành vi phản nhân loại của Nhật Bản, đồng thời thúc giục chính phủ Mỹ ngay lập tức ngừng giao thương với Nhật Bản.
Thêm vào đó, việc máy bay Nhật Bản oanh tạc tàu chiến Mỹ đã gây ra sự phẫn nộ lớn trong lòng người dân Mỹ. Nhiều yếu tố này cùng lúc hội tụ đã làm dấy lên làn sóng bài trừ hàng Nhật trong dân chúng Mỹ.
Chỉ riêng trong năm đầu tiên Trung Quốc kháng chiến toàn diện, tổng kim ngạch hàng hóa Nhật Bản bán sang Mỹ đã giảm từ 200,4 triệu yên xuống còn 150 triệu yên, mức giảm tới 26%. Đây là một con số vô cùng đáng sợ, và tình hình này còn liên tục gia tăng trong nhiều năm, khiến Nhật Bản dần mất đi thị trường Mỹ, và nền tài chính Nhật Bản cũng vì thế mà khốn đốn.
...
New York.
Chu Hách Huyên cùng Vu Bội Sâm đến New York để thăm hai vị nhà truyền giáo, còn Vivien Leigh thì ở lại Hollywood và không đi cùng.
Trên đường đi, họ bất chợt nhìn thấy một đoàn diễu hành gồm vài trăm người. Mọi người giơ cao các biểu ngữ "Bài trừ hàng Nhật", "Phản đối bạo tàn", "Bảo vệ chính nghĩa", "Tuyệt giao với Nhật Bản". Ở phía trước đoàn người, nhiều người mặc trang phục giáo hội đang phát truyền đơn dọc đường.
Một quý bà ăn mặc thời thượng vừa xuống xe thì được một giáo sĩ chặn lại để phát truyền đơn, nói rằng: "Thưa quý bà xinh đẹp, xin bà đừng mua tất chân Nhật Bản. Mỗi một đôi tất chân Nhật Bản bà mua đều là đang tiếp sức cho lũ ác quỷ. Những ác quỷ đó đang hoành hành tàn sát ở vùng Viễn Đông xa xôi, chúng giết hại thường dân vô tội, thậm chí cả phụ nữ mang thai và trẻ em. Đây là điều Thượng Đế không cho phép, đây là sự báng bổ Thượng Đế, chắc chắn chúng sẽ phải xuống địa ngục!"
Vị quý bà có vẻ hơi sợ hãi, nhận lấy truyền đơn và gật đầu lia lịa: "Được rồi, tôi sẽ không mua tất chân Nhật Bản nữa. Xin ông nhường đường một chút được không, tôi còn phải đi mua quà sinh nhật cho chồng."
Đoàn diễu hành càng lúc càng gần, Vu Bội Sâm phấn khởi nói: "Thưa tiên sinh, ngài thấy không? Rất nhiều người Mỹ đang ủng hộ cuộc kháng chiến của Trung Quốc!"
"Thấy chứ, những người Mỹ này xứng đáng nhận được sự tôn trọng và ngưỡng mộ." Chu Hách Huyên gật đầu nói.
Trên thực tế, Chu Hách Huyên khá nghi ngờ động cơ của vị giáo sĩ kia; không nói đến các mặt hàng khác, nhưng ngày nào cũng tập trung vào việc bài trừ tất chân Nhật Bản. Nếu không có sự hậu thuẫn từ các nhà sản xuất tất chân Mỹ, Chu Hách Huyên thề chết cũng không tin.
Thời điểm này, tất chân nylon tuy đã được phát minh nhưng vẫn chưa chính thức bán ra thị trường; trên thị trường chủ yếu vẫn là các loại tất chân truyền thống. Nhật Bản, với tư cách là cường quốc sản xuất tơ lụa, đã sản xuất ra những đôi tất chân chất lượng cực cao, rất được phụ nữ Mỹ ưa chuộng, khiến các sản phẩm tất chân nội địa Mỹ liên tục thất bại trên thị trường.
Ít nhất thì, các nhà sản xuất tất chân Mỹ kiên quyết ủng hộ phong trào bài trừ hàng Nhật. Theo họ, việc chính phủ Mỹ nên làm là cắt đứt hoàn toàn quan hệ thương mại với Nhật Bản.
So với việc được các nhà tư bản Mỹ hậu thuẫn kín đáo, các nhà tư bản Anh quốc đã tự mình ra mặt ủng hộ công khai. Bởi vì Anh quốc đầu tư quá nhiều vào Trung Quốc, cuộc xâm lược Trung Hoa của Nhật Bản đã gây ra những tổn thất nghiêm trọng cho họ, khiến vô số đoàn thể thương nhân Anh quốc sục sôi phản đối. Trong đó tiêu biểu nhất là ba công ty: Công ty Hóa chất Đế quốc, Công ty Dầu mỏ Shell chi nhánh Anh Quốc và Công ty TNHH Cổ phần Thuốc lá Anh – Mỹ.
Các công ty Anh này, một mặt tổ chức tuyên truyền và quyên góp, một mặt gây áp lực lên chính phủ Anh. Họ chỉ rõ: "Chính phủ Anh cần ý thức được rằng, nếu không dùng mọi vũ khí chống lại Nhật Bản – bao gồm uy tín, tài chính, tài nguyên, cũng như các vật tư khan hiếm và quyền kiểm soát thị trường – thì Nhật Bản chắc chắn sẽ chiếm lĩnh Trung Quốc; khi đó, việc Nhật Bản thanh toán lợi ích của Anh quốc ở Trung Hoa chỉ còn là vấn đề thời gian."
Không cần Trung Quốc phải đứng ra tìm kiếm sự giúp đỡ, các nhà tư bản Anh – Mỹ, những người có lợi ích bị tổn hại, cũng đã đồng loạt gửi kháng nghị lên chính phủ của mình và tự phát triển khai nhiều hình thức vận động viện trợ Trung Quốc.
Có lẽ vì thấy trong xe có hai khuôn mặt châu Á, đoàn diễu hành đã bao vây kín chiếc xe của Chu Hách Huyên. Một giáo sĩ tiến đến gõ cửa kính xe và hỏi: "Các vị là người Nhật Bản sao?"
"Không, chúng tôi là người Trung Quốc." Chu Hách Huyên đáp.
Vị giáo sĩ nói: "Thưa tiên sinh, tôi hy vọng ông không nói dối. Nếu ông là người Trung Quốc, vậy thì tôi xin bày tỏ sự đồng cảm và cổ vũ, hy vọng quý quốc có thể giành chiến thắng trong cuộc chiến. Còn nếu ông là người Nhật Bản, thì xin hãy giữ vững chính nghĩa, nghe theo lời chỉ dẫn của Thượng Đế, góp sức mình để phản đối cuộc chiến phi nghĩa."
"Xin cảm ơn, tôi xin thay mặt nhân dân Trung Quốc bày tỏ lòng biết ơn đối với sự giúp đỡ của quý vị." Chu Hách Huyên chân thành nói.
Lúc này, vị giáo sĩ mới quay về đoàn diễu hành, nói với những người khác: "Trong xe là người Trung Quốc, họ đã bày tỏ lời cảm ơn với chúng ta, vậy thì chúng ta hãy tiếp tục tiến lên vì chính nghĩa!"
Rất nhanh, đoàn diễu hành tiến đến một cửa hàng Nhật Bản, có người đột nhiên hô to: "Đập phá nó!"
Vị giáo sĩ vội vã ngăn lại, hô lớn: "Xin đừng dùng bạo lực! Chúng ta đang diễu hành hòa bình. Xin đừng dùng bạo lực!"
Nhiều người tham gia diễu hành không hề nghe lời khuyên ngăn, túm năm tụm ba xông vào cửa hàng Nhật Bản, đập phá tan tành những tủ kính bằng pha lê. Trong số đó còn trà trộn cả những phần tử bất hợp pháp, chúng nhanh chóng cướp đi hàng hóa trong cửa hàng, rồi như những anh hùng dân gian "cướp của người giàu giúp người nghèo", cười phá lên đánh đập nhân viên cửa hàng, thậm chí khi rời đi còn phóng hỏa đốt cửa hàng.
Vì sao chỉ trong vỏn vẹn một năm, kim ngạch hàng hóa Nhật Bản bán sang Mỹ lại giảm tới 26%? Chỉ cần nhìn những gì đang diễn ra trước mắt là đủ hiểu, bởi vì bán hàng Nhật tiềm ẩn nguy cơ bị đập phá, cướp bóc, dẫn đến các cửa hàng Nhật Bản ở Mỹ nhanh chóng đóng cửa hoặc giảm thiểu số lượng.
Người dân Mỹ vẫn rất nhiệt huyết, Chu Hách Huyên thấy cần phải dành cho họ một lời tán dương.
Bản văn này, với sự trau chuốt tỉ mỉ, thuộc về truyen.free.