(Đã dịch) Dân Quốc Chi Văn Hào Quật Khởi - Chương 929 : ( bắt lính )
Ở hiệu ảnh.
Chu Hách Huyên gỡ cuộn phim hỏi chủ quán: "Khi nào thì ảnh rửa xong ạ?"
Chủ quán cười đáp: "Người khác rửa phim ít nhất phải mất một tuần, nhưng riêng Chu Thần Tiên rửa ảnh thì chậm nhất là chiều mai đã có thể lấy ảnh được rồi."
Lý Tông Ngô trêu chọc nói: "Xem ra thần tiên làm việc đúng là phải nhanh hơn hẳn."
"Tùng tùng tùng tùng Đùng!"
Đúng lúc này, trên đường phố đột nhiên vang lên tiếng chiêng trống khua ồn ào.
Mọi người đi ra xem thử, chỉ thấy một nhóm người mặc đồng phục đang mang theo những bông hoa đỏ rực lớn, vừa đi vừa tuyên truyền, hô vang: "Kháng chiến là nghĩa vụ, tòng quân là vinh quang! Bà Trần ở Thành Quan trấn đã đưa cả bốn người con trai của mình ra chiến trường, được Huyện trưởng Cam đích thân ban lệnh khen ngợi! Kháng chiến là nghĩa vụ, tòng quân là vinh quang! Bà Trần ở Thành Quan trấn..."
Nam Hoài Cẩn thở dài nói: "Vị bà lão Trần kia, quả thật là một người mẹ anh hùng."
Chủ hiệu ảnh cười khẩy nói: "Cả huyện Phú Thuận, ai mà chẳng là anh hùng."
"Lời này có ý gì?" Chu Hách Huyên hỏi.
Chủ quán nói: "Hàng năm, cứ đến hai mùa xuân thu là đều phải trưng binh, nhà nhà bị bắt lính. Thằng cả nhà tôi mới mười bốn tuổi, năm nay cũng đã có tên trong danh sách trưng binh rồi, lão tử phải tốn mười đồng bạc trắng mới chạy chọt được quan hệ đấy."
Tiền Cát lặng lẽ nói: "Vị thành niên, con trai độc nhất và học sinh hình như không phải cưỡng chế đi lính thì phải?"
"Ha ha." Chủ quán cười gượng hai tiếng.
Chu Hách Huyên im lặng không nói, vẻ mặt có chút khó coi.
Tứ Xuyên là nơi có số binh lính tham gia kháng chiến đông đảo nhất. Câu nói này tuy khiến người Tứ Xuyên kiêu ngạo tự hào, nhưng đằng sau đó lại che giấu vô số gia đình phải đổ máu rơi lệ.
Lấy ví dụ huyện Phú Thuận, toàn huyện có chưa đến bốn mươi vạn nhân khẩu, nhưng trong tám năm kháng chiến, số người tòng quân là ba vạn năm ngàn người, tương đương với một phần mười dân số toàn huyện cùng ra chiến trường. Nếu tính cả hàng vạn tráng đinh nhiều lần phục dịch xây dựng công trình, thì trừ người già, yếu, bệnh tật và phụ nữ, ước chừng hơn tám mươi phần trăm thanh niên trai tráng đều đã cống hiến cho đất nước.
Liệu có thật nhiều bách tính sẵn lòng bỏ nhà cửa để báo quốc đến thế không?
Chắc chắn là không thể.
Nói trắng ra chỉ có ba chữ: bắt lính!
Tình huống như thế này cực kỳ phổ biến ở Tứ Xuyên. Từ huyện trưởng, thị trưởng cho đến chủ tịch xã, bảo trưởng, mỗi người đều là đao phủ. Huyện trưởng, thị trưởng bắt lính được xem là công trạng, còn chủ tịch xã, bảo trưởng bắt lính thì kiếm được tiền. Họ nhân cơ hội này đe dọa, vơ vét của cải bách tính, kiếm những đồng tiền quốc nạn vô lương tâm.
Các phú hộ tuy có thể dùng tiền mua tráng đinh thay thế, nhưng cũng trở thành mục tiêu chính để quan lại đe dọa, vơ vét. Ví dụ như nhà Nhạc Ryota, vốn là một phú nông, vì đã dùng tiền mua tráng đinh mà càng bị chủ tịch xã lấy cớ "thi đỗ" để nhiều lần vơ vét đến sáu lần, ngày lễ ngày tết còn phải biếu xén quà cáp.
Quân lính phụ trách trưng binh lại có một con đường làm giàu khác. Bọn họ cắt xén phí an cư và phí ăn ở của lính. Số tiền bị cắt xén đó thậm chí còn không đủ cho tráng đinh đến trại tân binh, dẫn đến việc dọc đường đi, có rất nhiều tráng đinh sắp nhập ngũ đã chết vì bệnh tật và đói khát.
Theo hồi ức của Lý Thiệu Lương, cựu tư lệnh một đoàn quân Quốc dân lúc bấy giờ, mỗi khi trưng binh, ông ta cắt xén 1.2 nguyên, còn 0.8 nguyên thì dùng làm chi phí cơ bản. Mỗi tháng ông ta thu vào ít nhất 3000 nguyên, nhưng số tiền này cần phải chia ba bảy với quan tiếp binh. Ông ta tự nhận cách cắt xén này là vô cùng lương tâm, không lấy nhiều, cũng không "ăn chặn" phí an cư.
Ở Hà Nam thì càng vô liêm sỉ hơn nhiều –
Thủy ngân là vật tư khan hiếm mà Nhật Bản dùng để chế tạo súng ống đạn dược, chính phủ Trung Quốc vì thế đã cấm xuất khẩu thủy ngân. Để có được thủy ngân, quan quân Hà Nam liền lợi dụng cơ hội đưa tráng đinh tòng quân, buộc tráng đinh phải vận chuyển vật tư đến Trùng Khánh để đổi lấy thủy ngân, rồi cán bộ đưa lính mang thủy ngân về Hà Nam. Thường thì họ chấp nhận năm mươi phần trăm tân binh chết để đổi lấy một ít thủy ngân bán cho người Nhật Bản.
Đến năm 1943, Quốc phủ ban bố "Luật Nghĩa Vụ Quân Sự Tân Binh", đưa cả học sinh vào phạm trù nghĩa vụ quân sự bắt buộc.
Bộ trưởng Quân chính Hà Ứng Khâm và Bộ trưởng Bộ Tài chính Khổng Tường Hi đã nghĩ ra một biện pháp hay: Thanh niên vừa đến tuổi nhập ngũ có thể nộp cho chính phủ 3500 nguyên, tức là có thể trì hoãn việc phục dịch quân sự một năm. Lúc đó, toàn quốc ước tính có khoảng bốn mươi triệu thanh niên vừa đến tuổi nhập ngũ. Họ cho rằng ít nhất ba mươi triệu người sẽ sẵn lòng bỏ tiền ra. Như vậy, Khổng Tường Hi hàng năm sẽ có vài tỷ nguyên ngân sách thu vào, còn Hà Ứng Khâm cũng có mười triệu nguồn binh lính đặc biệt nhập ngũ.
Khi đó, tiền pháp định vẫn chưa hoàn toàn trở thành giấy vụn. 3500 nguyên theo giá thị trường có thể tương đương 250 đô la Mỹ. Trừ những gia đình giàu có, thử hỏi ai có thể nộp nổi số tiền ấy?
Đây chính là bối cảnh thực sự đằng sau câu nói "Một tấc non sông một tấc huyết, mười vạn thanh niên mười vạn quân".
Trên đường về nhà, Lý Tông Ngô nói: "Cách nơi tôi ẩn cư không xa, có một gia đình mà mấy năm trước, trong đợt đại hạn, bảy người thanh niên khỏe mạnh đã chết, chỉ còn lại hai người. Cuối năm ngoái, một trong số đó đã bị bắt đi làm tráng đinh, trong nhà chỉ còn lại một bà lão mù lòa. Thật nghiệp chướng!"
Nam Hoài Cẩn hỏi: "Bà lão kia thế nào rồi?"
Lý Tông Ngô nói: "Chết rồi. Bà con hàng xóm ai nấy đều chẳng khá giả gì, mỗi nhà chia một ít thức ăn để bà sống qua ngày. Sau Tết, bà ấy nghĩ quẩn nên treo cổ tự tử."
Tiền Cát phẫn uất nói: "Làm sao có thể như vậy được? Dựa theo luật nghĩa vụ quân sự, con trai độc nhất không cần phải đi lính!"
Lý Tông Ngô cười lạnh nói: "Quan lại vì lập công, ai nấy đều tích cực vô cùng. Những kẻ bất mãn với việc đi lính, họ cứ thế bắt làm tráng đinh, trước tiên là tóm những kẻ ăn mày, lang thang, rồi đến những người đàn ông độc thân, độc đinh như thế này. Đằng nào thì có bắt nhiều hơn nữa cũng chẳng gây phiền toái."
Chu Hách Huyên không tham gia vào cuộc thảo luận, vì những tài liệu mà hắn từng thấy còn thảm khốc hơn thế này nhiều. Bởi vì năm 1940 còn khá ổn, nhưng đến sau năm 1942, Quốc Dân Đảng bắt tráng đinh thì quả thực coi trời bằng vung – tráng đinh dọc đường chết, dọc đường chạy trốn. Chỉ tiêu thiếu hụt có thể bổ sung ngay dọc đường, ven đường thấy nông dân, tiểu thương, ngư dân, người kéo thuyền ở đâu là tóm ngay ở đó. Thậm chí cả người già và trẻ con cũng bắt, còn chạy ��ến quán trà, tửu lâu để bắt đầu bếp cùng trà khách (người ngoại tỉnh).
Dân chúng vì trốn lính mà giả ngây giả dại, thậm chí còn tự tàn tật, cắt ngón tay, chọc mù mắt cũng không phải là chuyện hiếm.
Không phải bách tính không yêu nước, mà là tỷ lệ tử vong của tân binh quá cao. Thậm chí còn chưa ra chiến trường thì đã có thể chết đến vài phần mười.
Chu Hách Huyên cũng lười khuyên can Tưởng Giới Thạch, chẳng muốn nói ra những tình huống gay go này. Bởi vì Tưởng Giới Thạch thừa biết rõ sự thật, nhưng bộ máy chính phủ Quốc dân đã thối nát tận gốc rễ. Trung ương dù liên tục ra lệnh cấm đoán cũng chẳng có biện pháp nào, bên trong hệ thống hành chính cấp thấp đã sớm mất kiểm soát, hay nói đúng hơn là từ trước đến nay chưa bao giờ thực sự kiểm soát được.
Chỉ khi nơi nào đó gây ra dân biến, hoặc là ăn hối lộ quá lộ liễu, quá khó coi, mới bị Lão Tưởng bắt ra làm điển hình để trừng trị mạnh tay. Đối với tình trạng bắt lính như ở huyện Phú Thuận, Lão Tưởng không những sẽ không trừng phạt, ngược lại còn ban lệnh khen ngợi cho huyện trưởng.
Mãi cho đến khi về đến nhà, Lý Tông Ngô vẫn còn càu nhàu: "Hiện tại không chỉ việc bắt lính diễn ra dữ dội, mà thuế má cũng cao ngất ngưởng. Bách tính bụng còn chưa no, chính phủ còn kêu gọi vì nước mà thắt lưng buộc bụng, kêu gọi công chức và dân chúng mỗi ngày chỉ ăn hai bữa, nói rằng những lương thực tiết kiệm được đó có thể dùng để đánh đuổi "quỷ Nhật". Đánh quái gì cái bọn quỷ tử chứ! Nếu kháng chiến này mà thắng lợi, sau này chắc chắn là Đảng Cộng sản nắm chính quyền, không tin thì cứ đợi mà xem."
Chu Hách Huyên cười nói: "Lý huynh, đừng bàn chuyện quốc sự, coi chừng tai vách mạch rừng."
Lý Tông Ngô dửng dưng như không: "Ông ta mà dám đến bắt tôi sao. Tôi cùng tuổi với Einstein, Einstein đã nổi danh toàn cầu, tôi thì mới chỉ nổi danh ở Tứ Xuyên. Lão Tưởng mà đến bắt tôi, thế thì tôi lại càng nổi tiếng, chắc chắn sẽ vang danh khắp cả nước!"
Nam Hoài Cẩn nói: "Chu tiên sinh, ông có cơ hội gặp mặt Tổng tài Tưởng, lần sau gặp ông ấy có thể phản ánh một chút."
"Ừm, tôi sẽ phản ��nh." Chu Hách Huyên không muốn nói nhiều. Bản dịch này là tài sản quý giá của truyen.free, được chắt lọc từ tâm huyết người viết.