(Đã dịch) Dân Quốc Chi Văn Hào Quật Khởi - Chương 990 : ( thổ phỉ ổ )
990 (ổ thổ phỉ)
Vào cuối những năm 20 và đầu những năm 30 của thế kỷ trước, khi quân phiệt hỗn chiến ác liệt nhất, số lượng thổ phỉ ở Trung Quốc đã vượt quá 20 triệu người. Nếu tính theo dân số 400 triệu người, cứ khoảng 20 người Trung Quốc thì sẽ có một tên là thổ phỉ. Vì thế, một số chuyên gia nước ngoài thời đó đã gọi Trung Quốc là "Vương quốc thổ phỉ".
Một trong những đóng góp lớn nhất của chính phủ Quốc dân đối với Trung Quốc, có lẽ chính là việc tiễu phỉ.
Đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến, ở khu vực Tây Bắc và Tây Nam, những băng đảng thổ phỉ lớn về cơ bản đều bị xóa sổ. Phương thức chủ yếu là chiêu an. Bất cứ băng thổ phỉ nào có quy mô trên 1.000 người đều sẽ bị để mắt tới. Sau đó, một bức thư chiêu dụ được gửi đến, thổ phỉ liền đổi thân phận thành quân chính quy, thậm chí nhiều người còn bị điều lên chiến trường kháng Nhật.
Khi chúng ta nói thổ phỉ ở Tây Bắc lúc này đã tuyệt diệt, đó chỉ là những băng thổ phỉ quy mô lớn. Các nhóm thổ phỉ nhỏ vẫn đông vô kể, tụ tập thành từng nhóm gây họa khắp nơi. Một băng có quy mô 100 người đã đủ để "khinh thường quần hùng".
Tại Đại Thạch Oa, phía Tây Bắc huyện Vĩnh Lạc, nơi giao giới giữa ba hương Kim Trữ, Thông Xa và Bảo Ba, địa thế hiểm trở, dễ thủ khó công. Hơn mười năm trước, nơi đây từng bị Bao Hải Thành và Trương Hành cùng vài chục thổ phỉ chiếm giữ. Chúng giết người cướp của, làm đủ mọi chuyện ác, mãi đến sau Đại chiến Trung Nguyên mới bị càn quét.
Sau khi băng đảng thổ phỉ của Bao Hải Thành và Trương Hành bị tiêu diệt, Đại Thạch Oa nhanh chóng bị một nhóm đao khách khác chiếm cứ, thủ lĩnh là Mã Vĩnh Khuê. Trong khu vực Cam Túc với mâu thuẫn dân tộc vô cùng gay gắt, Mã Vĩnh Khuê là người Hồi. Dưới trướng ông ta lại có thổ phỉ thuộc các dân tộc Hán, Hồi, Mông cùng tồn tại hài hòa, không thể không nói ông ta là một nhân tài.
Mới đầu, băng nhóm của Mã Vĩnh Khuê chỉ có sáu người, phát triển cực kỳ chậm chạp. Thêm vào đó, vì ông ta kiên quyết không "ăn cỏ gần hang" (tức không cướp bóc người dân địa phương), dẫn đến đám thổ phỉ thường xuyên bị đói. Một số thủ hạ đã không chịu nổi gian khổ mà bỏ đi.
Mãi đến khi kháng chiến bùng nổ, viện trợ của Liên Xô cần phải được vận chuyển qua vùng Đại Tây Bắc, chính phủ liền tăng cường trấn áp thổ phỉ dọc các tuyến đường lớn. Các băng thổ phỉ lớn biến mất, quân phiệt bị điều ra tiền tuyến chống Nhật, điều này tất nhiên khiến Con đường Tơ lụa một lần nữa trở nên phồn vinh.
Thời của Mã Vĩnh Khuê đã đến. Ông ta chuyên cướp bóc khách buôn trên đường.
Để tránh bị quan phủ để mắt, ông ta chưa bao giờ giết người, thậm chí còn để lại một ít đồ ăn thức uống cho những khách buôn bị cướp để họ có thể tự mình quay về thị trấn. Sau khi quy mô băng nhóm mở rộng đến 150 người, Mã Vĩnh Khuê cũng không chiêu mộ thêm thành viên mới, vì lo sợ quá nhiều người sẽ dẫn đến sự vây quét của quan phủ.
Hắn dùng tiền cướp được lên Nội Mông mua ngựa, rồi từ một nơi nào đó trong quân đội mua được không ít súng đạn, thậm chí còn bỏ rất nhiều tiền để có được một khẩu súng máy Maxim.
Không những thế, Mã Vĩnh Khuê còn thường xuyên phân phát lương thực cho ba hương trấn xung quanh ổ thổ phỉ của mình, khiến các thân sĩ và bách tính địa phương đều rất ủng hộ ông ta. Thậm chí ngay cả quan chức huyện đến thu thuế cũng phải nể mặt ông ta mấy phần.
Theo lời giải thích của người dân địa phương, Mã Vĩnh Khuê đang "bảo cảnh an dân" (giữ yên cảnh giới, an bình cho dân). Thân sĩ và người dân đều tự nguyện che chắn, báo tin cho ông ta, từ huyện trưởng đến trưởng trấn đều ngấm ngầm giúp ông ta che giấu.
Hiện tượng quan phỉ cấu kết như vậy rất phổ biến ở Đại Tây Bắc, bởi vì vùng này quá hỗn loạn. Những thổ phỉ "nhân nghĩa" như Mã Vĩnh Khuê còn được hoan nghênh hơn quan phủ, bởi lẽ quan phủ còn tàn bạo và ngược đãi dân chúng hơn nhiều.
Mã Vĩnh Khuê đang đánh cờ tướng với sư gia Bàng Du thì một tên thổ phỉ phụ trách tuần tra đi vào bẩm báo: "Đại đương gia, có tin tốt, tư lệnh đã tóm được một chiếc xe Tây!"
"Ôi, xe Tây trông như thế nào?" Mã Vĩnh Khuê hỏi.
Tên thổ phỉ tuần tra nói: "Là loại xe Tây dùng để vận chuyển vật tư của Liên Xô, có toa kéo phía sau."
Sư gia Bàng Du cười nói: "Đó gọi là xe tải."
"Đúng đúng đúng, chính là xe tải," tên thổ phỉ tuần tra nói. "Đã lái xuống chân núi, tư lệnh còn bắt được mấy con tin, trong đó có một người phụ nữ vô cùng xinh đẹp, tươi tắn."
Mã Vĩnh Khuê cau mày nói: "Người có thể lái xe tải chắc chắn không phải tầm thường, e rằng sẽ rước phải phiền phức chăng?"
Các đoàn buôn ở Cam Thiểm, phần lớn dùng xe la và xe lừa, số ít đi đường xa thì dùng lạc đà. Còn xe tải, ấy thì về cơ bản đều có quan hệ với chính phủ và quân phiệt, thường có binh lính áp giải, nên thổ phỉ không dám động vào.
Bàng Du hỏi: "Những con tin đó lai lịch thế nào?"
Tên thổ phỉ tuần tra lắc đầu nói: "Không rõ."
Mã Vĩnh Khuê quay đầu nói: "Bàng sư phụ, ông thấy thế nào?"
Bàng Du vuốt râu nói: "Đem người lên núi, rồi kiểm tra xem trên xe và trên người họ có công văn gì không. Nếu đúng là quan lớn của Quốc dân đảng, thì phải lễ phép đưa về. Còn nếu là thương nhân lớn trong huyện hoặc của tỉnh phủ, vậy thì nhân cơ hội kiếm một mẻ lớn!"
Mã Vĩnh Khuê lập tức quyết định: "Cứ làm theo lời sư gia!"
Khoảng hơn nửa giờ sau, bốn người Chu Hách Huyên bị dẫn đến, toàn thân bị trói chặt và đẩy ngồi xuống ghế.
Tên thủ lĩnh thổ phỉ đã bắt Chu Hách Huyên lên núi là Trương Đức Bưu. Hắn mang theo một cuốn sổ nhỏ màu xanh lam đi tới, nói: "Đại ca, sư gia, đây là thứ tìm thấy trên người tên kia. Tôi không biết chữ, các ông xem đây là cái gì?"
Mã Vĩnh Khuê cầm lấy, liếc qua, suýt chút nữa không giữ vững, chỉ thấy trên bìa ngoài cuốn sổ nhỏ in bảy chữ lớn: "Trung Hoa Dân quốc, Quan Tướng Chứng".
Mã Vĩnh Khuê cố gắng trấn tĩnh mở ra. Bên phải vẫn là dòng chữ "Trung Hoa Dân quốc Quan Tướng Chứng", bên trái là ảnh chân dung Tôn Trung Sơn. Phía trên ảnh chân dung viết "Thiên hạ vi công", hai bên ghi rõ "Cách mạng chưa thành công, đồng chí vẫn cần nỗ lực".
Mở tiếp ra là số hiệu, họ tên, quê quán, tuổi tác, dân tộc, binh chủng, chức vụ và các thông tin khác của Chu Hách Huyên.
Binh chủng: Lục quân phòng không.
Chức vụ: Phó ủy viên trưởng.
Mã Vĩnh Khuê nuốt khan một tiếng, đưa "Quan Tướng Chứng" cho Bàng Du: "Bàng sư phụ, phó ủy viên trưởng Lục quân phòng không là chức quan gì?"
Bàng Du liếc nhìn tấm chứng thư, còn tưởng mình hoa mắt. Ông xoa mắt nhìn lại, nhất thời sợ đến cả người mềm nhũn. Ông ta vịn ghế đứng dậy nói: "Nhanh, mau cởi trói cho Chu ủy viên trưởng! Nhanh lên, còn ngần ngại gì nữa?"
Mã Vĩnh Khuê cũng biết mình đã động chạm đến nhân vật lớn, hắn hỏi nhỏ: "Bàng sư phụ, người này rốt cuộc lai lịch thế nào?"
Bàng Du cười khổ nói: "Ủy viên trưởng Ủy ban Hàng không là Tưởng Giới Thạch, chỉ đạo trưởng là Tống Mỹ Linh, ông nói phó ủy viên trưởng thì lai lịch thế nào? Vị này là phó tổng tư lệnh không quân Trung Quốc đấy!"
Mã Vĩnh Khuê mềm nhũn cả hai chân, vội vàng chạy đến bên cạnh Chu Hách Huyên, tự tay cởi trói và nói: "Ôi chao, Chu tướng quân, sai lầm, sai lầm rồi! Sao lại dám bắt ngài? Tôi còn tưởng là gián điệp Nhật Bản!"
Chu Hách Huyên cười hỏi: "Tôi trông giống gián điệp Nhật Bản sao?"
"Không phải, không phải," Mã Vĩnh Khuê tự tát mình một cái, cười xoa dịu nói. "Ngài xem cái miệng tôi này, thật là không biết ăn nói, đáng đánh! Ha ha, đáng đánh!"
Trương Đức Bưu đi đến bên cạnh Bàng Du, nhỏ giọng nói: "Sư gia, một nhân vật lớn như vậy, không thể thả về được, thà rằng giết chết diệt khẩu luôn đi."
"Giết... không đúng, không giết được. Đó là Chu Hách Huyên, là Chu Hách Huyên trên báo ấy!" Bàng Du đột nhiên nhớ ra điều gì đó.
"Sao lại không giết được? Sống không thấy người, chết không thấy xác, ai mà biết là chúng ta làm." Trương Đức Bưu cười lạnh nói.
Bàng Du thở phì phò nói: "Ngươi biết cái quái gì! Đó là Chu Hách Huyên."
Trương Đức Bưu hỏi: "Chu Hách Huyên là ai?"
Bàng Du nói: "Cái quyển 'Anh hùng xạ điêu truyện' mà ngươi vẫn thường xem ấy, chính là do Chu Hách Huyên viết. Ngươi chẳng phải cũng từng nghe kể chuyện Quách Tĩnh, Hoàng Dung sao?"
Trương Đức Bưu nói: "Hóa ra là người viết sách, cũng chẳng có gì ghê gớm."
"Chuyện của người đọc sách thì ngươi không hiểu đâu," Bàng Du vuốt râu đắc ý nói. "Với địa vị của Chu tiên sinh bây giờ, nếu đặt vào thời Tiền Thanh thì chính là bậc văn tông thiên hạ, người ta tài giỏi lắm. Hiện tại, ít nhất một nửa số học giả nghiên cứu sử học ở Trung Quốc đều là môn đồ của ông ấy, đều theo lý luận của ông ấy để nghiên cứu học vấn. Văn Khúc tinh hạ phàm, ngươi có hiểu không?"
Trương Đức Bưu nói: "Ta chỉ biết Trạng nguyên mới là Văn Khúc tinh hạ phàm."
Bàng Du không nói gì, nói: "Vậy ngươi cứ coi ông ta là Trạng nguyên đi."
Trong lúc hai người đang xì xào bàn tán, Mã Vĩnh Khuê đã tự mình cởi trói cho bốn người Chu Hách Huyên, liên tục xin lỗi.
Chu Hách Huyên vốn dĩ mang theo "Quan Tướng Chứng" bên mình là để tiện đi lại ở Đại Tây Bắc. Ban đầu ông không nói gì vì chưa rõ tình hình đám thổ phỉ này. Nhưng giờ thấy bọn thổ phỉ biết điều, ông liền lập tức ra oai, khí thế được nắm giữ rất chuẩn xác.
Bản văn này thuộc quyền sở hữu của truyen.free và được thực hiện một cách tỉ mỉ.